Mặt trận Hà Giang 1989: Hồi ức 5 ngày trên đất Trung Quốc !

Gọi là thắng cũng đươc. Nhưng nói thật, không hoành tráng như phim đâu. Đánh rồi mới thấy chiến trường không giống phim. Khốc liệt hơn nhiều. Tàn bạo hơn nhiều…

slide-hagiang2

Bài viết của tác giả Cao Sơn, được thực hiện dựa trên trải nghiệm cá nhân của tác giả và lời kể của các chiến sĩ thuộc một số đơn vị khác nhau của QĐND Việt Nam trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc những năm 1980.  Bài được đăng tải lần đầu tiên trên diễn đàn TTVNOL.

Ngày đấy em thuộc Tiểu đoàn 5, trung đoàn 692 ( đoàn Thanh Xuyên, đơn vị trước đây của Lê Đình Chinh), sư 301, Quân khu Thủ Đô lên tăng cường cho mặt trận. Lên đến Bắc Quang, cách thị xã Hà Giang khoảng 80km thì lính đào ngũ hơn nửa. Sợ quá các bác ạ.

Em thì lúc đấy 17 tuổi, bẻ gẫy sừng trâu nên còn máu. Từ thị xã Hà Giang, rẽ phải đi lên cổng trời Quản bạ. Đây goi là cửa tử vì pháo Trung Quốc suốt ngày giã cua. Bọn em hành quân bộ.

Chập tối, cả đơn vị dừng chân nghỉ ăn cơm. Cơm xong, em với thằng Toản cầm găng gô xuống suối múc nước lên đun pha trà. Đột nhiên có nhiều tiếng nổ dữ dội. Trung Quốc pháo kích đấy. Đất đá bay rào rào. Em với thằng Toản ngã dúi ngã dụi. Sợ không thở được. 15 phút thì pháo dứt, Toản nằm cạnh em không nhúc nhích. Em lay nó dậy, nó không nhúc nhích. Nó đi rồi các bác ạ.

Sau đó, em ở trên ấy 6 tháng. Bọn em tiếp quản của đặc công. Nếu em không nhầm thì đấy lính của M113. Địa hình điểm cao đấy rất buồn cười. Phía bên Trung Quốc thì rất dốc và có nhiều vật cản, phía bên ta thì thoai thoải và trống trơn. Chính vì vậy, bên kia mới tổ chức đánh theo phân đội 3 người. Đánh kiểu đó, bộ binh ta khóc thét vì địa hình trống trải.Trong kỹ thuật quân sự, mỗi nước có môt lực lượng dọn chiến trường riêng của mình. Mỹ lấy không quân làm lực lượng dọn chiến trường. Liên xô lấy tên lửa. Trung Quốc thì dùng pháo binh. Chính vì vây, chiến thuật của chúng nó là rót pháo. Cấp tập, dồn dập vào những vị trí chúng cho là trọng yếu. Khoảng 30 phút sau klhi pháo bắn, bộ binh mới xông trận.

Đó là lý do tại sao bọn Tàu khoái chơi pháo thế. Những chuyện thêu dệt là pháo Tàu bắn giỏi đến mức đạn chui vào nòng pháo ta là phét lác. Khi pháo bắn, trinh sát pháo phải nằm trong trận địa pháo để báo về hiệu chỉnh. Có khi pháo dập luôn cả vào vị trí đang ẩn nấp.

Sau trận pháo đầu tiên. Em đã hiểu thế nào là chiến trường. Bọn em thu don đồ đạc nhanh chóng và hành quân tiếp.

Khi lên đến chôt. Thật kỳ lạ. Bọn em vừa qua 3 tháng huấn luyện bản lề, quân lệnh như sơn, tóc tai quần áo chỉnh tề. Nhưng trên này, lính chốt trông như người rừng. Họ thực hiện 3 không:

1. Không mặc quần áo mới (chỉ người chết mới thay quần áo mới). 2. Không cắt tóc cạo râu (Sợ vận đen). 3. Không bắt tay và chào tạm biệt (sợ tạm biệt rồi mãi mãi không về).

Bọn em nhanh chóng vào hầm. Gọi là hầm cho oai, pháo dập trúng thì 10 hầm như thế cũng không tránh nổi. Em cùng hầm với thằng Chính. Thằng này quê Hải Hưng, nói ngọng, núc nào cũng mơ ước được ăn nòng nợn.

Thằng Chính lên đây 3 tháng, nó đánh 5 trận rồi. Em hỏi nó có sợ không. Nó bảo trận đầu sợ đ… bắn được. Nằm dưới hầm, thò súng lên trời kéo một băng.

Thằng Chính hơn em 3 tuổi đời. Nó nhập ngũ trước em 3 năm. Đúng ra, giờ này nó phải ở quê cày ruộng rồi mới phải. Nó bảo, hôm đó, chúng nó đã được ra quân. Đơn vị cách nhà ga 15 km đi bộ. Một số thằng cầm được quyết định là về ngay. Một số còn lưu luyến anh em, ở lại đêm cuối với anh em, mai đi sớm ra ga.

Chính cũng vậy, 3 năm ăn cùng mâm, ngủ cùng giường với nhau, còn một đêm hàn huyên, nên nó ở lại. Không ngờ, đêm hôm đó, bọn Tàu giở chứng. Toàn đơn vị được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao độ. Những cậu nào về từ chiều thì thôi, cậu nào còn ở lại thì phải ở lại để chiến đấu. Vậy là nó phải ở lại và hôm nay đang ngồi với em trong hầm chữ A, bên kia là đất Tàu.

Em là lính mới, nhiều cái bỡ ngỡ chưa biết, Chính phải chỉ bảo từng ly từng tý. Chẳng hạn như là, ra khỏi hầm phải đội cái nồi cơm điện nặng 1,4kg. Đầu em thì nhỏ, đội vào cứ lủng là lủng lẳng. Em nghĩ chỉ chẳng cần mảnh đạn mảnh pháo, chỉ cần hòn đá rơi vào cái mũ sắt này em cũng lộng óc mà chết.

Đầu hầm luôn đặt một khẩu cối cá nhân 60 và 2 hòm đạn đã nhồi liều phóng. Chính bảo em tranh thủ mà ngủ, ngủ được lúc nào là ngủ ngay. Bọn Tàu nó đánh không kể giờ đâu. Chính kiểm tra lại cơ số đạn, kéo cơ bẩm, khoá an toàn, đặt súng xuống rồi nằm ôm. Một lát thì thấy nó gáy như sấm.

Em ra khỏi hầm, nhìn ngó các hầm xung quanh. Các hầm được nối với nhau bằng giao thông hào. Em chạy qua mấy hầm chơi, tìm mấy thằng cùng đơn vị. Có mấy thằng đang khóc tu tu. Em cũng hơi hãi nhưng không đến mức ấy. Đại đội trưởng nhắn em về hầm. Giọng nói ông mềm mỏng đến không ngờ. Sau này em mới hiểu, trên này, cái sống và cái chết cách nhau gang tấc. Mọi người luôn cảm thấy cần nhau, dựa vào nhau để sống, vì vậy, không có chủ nghĩa quân phiệt như của mấy ông sỹ quan dưới kia.

Đêm hôm ấy, em không ngủ được. Hoàn toàn không phải vì sợ, mà thấy tiếc thời gian cho giấc ngủ. Cứ nghĩ rằng, mình ngủ và chẳng biết liệu ngày mai mình có dậy không, thế là lại cố căng mắt để thức.

Một đêm yên tĩnh trôi qua.

Sáng sớm, thằng Chính dậy. Nó đứng ***** ngay trước cửa hầm. Một tay cầm vòi phun lung tung, một tay cầm quả đạn cối to bằng cái bắp ngô thả vào khẩu cối 60. Tiếng nổ đầu nòng làm em giật mình, vơ khẩu súng, đội mũ sắt lao ra cửa hầm. Thằng Chính cười hềnh hệch bảo đấy là bắn cầm canh. Em kêu phí đạn thế, Tàu nó sang thì lấy đâu ra đạn mà đánh. Thằng Chính bảo, phải bắn cho chúng nó biết chủ quyền của Việt Nam ở trên điểm cao này. Các hầm xung quanh cũng thế, anh em vừa ***** vừa bắn, ngoạn mục lắm.

Trời sáng rõ, em leo lên hầm nhìn sang bên Tàu. Cũng rừng cũng núi như ở bên ta. Sao nó còn muốn lấy đất ta làm gì?

8h sáng, em được lệnh tập trung. Khả năng hôm nay lại đánh. Một trung đội được lệnh vòng ra sau đánh vào lưng khi chúng tấn công điểm cao. Em nằm trong nhóm đó. Thằng Chính nhìn em đầy lo âu, nó không chào tạm biệt, chỉ bảo em cẩn thận.

Bọn em xuất phát, có trinh sát dẫn đường. Hành trang gọn nhẹ: lương khô, nước, 2 quả lựu đạn, súng và 100 viên AK.

Trinh sát là thằng Sơn rùa, quê ở Đan phượng, trước là lính trung đoàn 72, trinh sát luồn sâu. Cu cậu cũng mới được điều lên đây. Riêng nó có la bàn và bản đồ. Địa điểm tập kết thì chỉ mình nó biết.

Đi đến chiều. Bọn em dừng lại ăn lương khô. Mặt thằng Sơn tái ngắt, không hiểu vì đói hay mệt. Ăn xong nó lại giục anh em đi mau. Nó truyền lệnh xuống phía dưới cho những người đi sau xoá dấu vết. Bỏ mẹ, sao lại phải thế? Sao lại phải xoá dấu vết. Em chưa có kinh nghiệm chiến trường nhưng cũng thấy nghi ngờ.

Trời tối. Bon em dừng chân ở một thung lũng. Mọi người tản ra, không được nói chuyện, ko được hút thuốc, không có ánh lửa. Em tiến đến chỗ Sơn rùa. Nó đang cầm cái đèn pin bịt vải đen chỉ khoét một lỗ bằng hạt gạo soi bản đồ. Em hỏi lạc đường rồi đúng không Sơn. Nó nhìn em sợ hãi hỏi sao biết.

Em bảo thấy mày bắt xoá dấu vết là tao ngờ rồi. Sơn bảo, bỏ mẹ, lạc vào đất Tàu 5 cây rồi.

Em tí ***** ra quần. Bây giờ mà gặp lính Tàu, chắc chắn cái thung lũng này thành cối xay thịt. Sơn bảo, có nên nói cho anh em biết không. Em bảo, nên nói để anh em chuẩn bị tinh thần. Trung đội phần lớn là lính mới như em, một số lính cũ, cũng chỉ đánh dăm ba trận thôi, không lại được với lính thời chống Mỹ. Thoạt đầu mọi người rất hoang mang, sau cũng ổn định dần. Em bảo, tối nay ta cố mà ngủ. Nếu đánh thì đánh, chết thì chết. Đời trai, một xanh cỏ, hai đỏ ngực, lo gì.

May quá, một đêm yên tĩnh bên Tàu đã trôi qua.

Trời tang tảng sáng, bọn em quyết đinh nhằm hướng Nam tiến. Không cần trinh sát, không cần la bàn, không cần cắt góc phương vị, cứ hướng Nam là về đất Việt rồi. Mệnh lệnh được ban ra, tuyệt đối bí mật, gặp địch, mọi người tản thật nhanh. Nếu bị phát hiện. Lính mới không được nổ súng, để lính cũ bắn trước.

Đi được khoảng 2 tiếng, bên sườn núi bên cạnh có tiếng đá rơi rào rào. Anh em vội vang tản ra mỗi người mỗi hướng. Không biết bọn Tàu đã phát hiện ra mình chưa. Không khí như đông đặc lại, thời gian ngừng trôi, ai nấy căng thẳng.

Một tràng AK đột nhiên ré lên, phá tan sự im lặng. Bên kia nhốn nháo, bên ta nhốn nháo. Thằng Tạo, quê ở phúc thọ, sợ quá tay ríu vào cò súng không gỡ ra được. Bên tàu đã phát hiện ra ta. Chúng chưa biết bên ta có bao người. ta cũng chưa biết chúng thuộc đơn vị nào, binh chủng vào, bộ đội biên phòng hay lính sơn cước.

Sau tràng AK lỡ làng kia, lập tức ta nổ súng áp đảo ngay. Bây giờ em mới hiểu tại sao chỉ có lính cũ được bắn. Khi chưa biết thực lực của nhau, các bên thường nghe tiếng súng để đoán trình độ tác nghiệp chiến trường của nhau. Nếu tiếng điểm xạ đều, tằng tằng…tằng tằng. Cứ 2 phát một, đều như giã cua, không nhanh, không chậm, ắt hẳn tay cơ cao, đánh trận nhiều. Lính mới thường làm một tràng dài, bắn vọt lên giời, sau đó lại im bặt.

Riêng khoản điểm xạ, sâu tay cò không lo tắc cú, em bắn hơi bị chuẩn. Lúc đó em hơi sợ, lẩm bẩm bài: ”tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới…” lấy lại được khí thế ngay. Bọn Tàu nhốn nháo chạy ngược chạy xuôi. Chúng có chừng một đại đội, đóng vắt vẻo bên sườn núi. Chúng đang đánh răng rửa mặt buổi sáng. Chắc chúng mới đến đêm qua vì chiều qua chúng em qua đây không gặp.

Em vừa bắn vừa di chuyển. Khoảng 10 phút sau, em hết sợ, máu căng phần phật trên mặt. Em mang có 100 viên đạn nên bắn rất tiết kiệm. Trong điều kiện thế này, lấy đạn của đich là điều không tưởng. Bọn Tàu bắt đầu ổn định, chúng cũng đoán ta không đông, chúng bắt đầu triển khai tấn công. Tả khoai ầm ỹ như đi chợ.

Vừa đánh vừa rút. Rút không nhanh chúng chặn khe núi đằng kia thì ngồi đấy đợi nó nhằm từng thằng nó xơi. Bọn Tàu cũng nhìn thấy điều đó, chúng bắt đầu triển khai quân chặn đượng rút của bọn em. Bọn em chạy phía dưới, chúng chạy phía trên. Vừa chạy vừa bắn như phim Mỹ. Khi còn cách khe núi một quãng nữa, súng rổ rát mang tai. Em và mấy người nữa, trong đó có thằng Tạo, chặn lại cho mọi người rút lui.

Mọi người nhanh chóng vượt qua khe núi. Em và nhóm ở lại bình tĩnh chặn các đợt phản công của địch. Đạn mọi người để lại cho bọn em khá nhiều. Thằng Tạo nổi hứng bỏ AK, dùng trung liên RBK bắn như vãi trấu. Thằng Luyện dùng AK và khẩu M79, thi thoảng lại đệm một quả như tiếng pháo đùng. Bọn em cầm cự khoảng 1 tiếng. Thằng Luyện bị một viên xuyên qua bắp tay, may chỉ vào phần mềm. Cái mũ sắt của em bẹp một góc, không hiểu bị bắn lúc nào. May thế cơ chứ, nếu không, chắc vỡ tan thiên linh cái rồi còn đâu.

Khi biết chắc chắn anh em đã thoát khỏi tầm nguy hiểm, bọn em rút lui.Sau khoảng một tiếng. Bọn em bắt đầu rút. Phía bên kia cũng ngừng tấn công. Em kiểm lại cơ số đạn dược. Thấy còn đủ để đánh trận nữa. Thằng Tạo lấy một quả lựu đạn mỏ vịt, rút gần tụt chốt, buộc vào sợ dây chuối, chăng ngang đường đi. 5 thằng chạy nhanh qua hẻm núi. Chạy khoảng nửa tiếng thì dừng lại thở. Thằng nào mặt mũi cũng đen nhẻm vì khói súng.

Bây giờ mọi người mới chú ý đến vết thương của thằng Luyện, máu vẫn chưa cầm, ri rỉ chảy qua lớp băng. Mặt nó tái xanh vì sợ và vì mất máu. Nó khát nước, em đưa cho nó cái bi đông. Nó uống được 2 hớp em giằng lại, uống càng nhiều càng mất máu. Có tiếng lựu đạn nổ sau khe núi. Thằng Vinh, quê ở ba vì, cười sằng sặc. Ít nhất cũng phải đi 2 thằng Khựa. Em bảo, nghỉ thế thôi. Tiếng nổ vừa rồi chứng tỏ bọn nó đã vượt qua khe núi. Chạy không mau thì thành bia di động cho chúng nó bắn bây giờ.

Lúc ở lại chặn địch, thằng nào cũng thích có nhiều súng đánh cho nó máu. Bây giờ cần rút nhanh thấy lỉnh kỉnh quá. Thằng Tạo ngoài khẩu AK còn khẩu Trung liên. Thằng Luyện bị thương, tự đi được là may lắm rồi, khẩu AK và khẩu M79 chia cho thằng Vinh và thằng Minh vác. Em xách túi đạn M79, đâu còn mươi quả gì đấy, nặng cũng kha khá.

Bọn em tính nhẩm trong đầu, đường chim bay về Việt Nam khảng 2 đến 3 km. Trèo đèo lội suối vòng vo đến 10 km là cùng. Đi nhanh chỉ hết 2 tiếng. Cả bọn mừng khấp khởi. Dọc đường còn bình luận lính sơn cước của Tàu thua xa dân quân tự vệ của mình.

Bên kia sườn núi bỗng có 2 con đại bằng bàng núi bay vọt lên, lượn mấy vòng trên không mà chẳng chịu xuống. Em là người Hà Nội, nhưng vẫn theo ông đi săn. Em hiểu rằng có người ở đấy. Vậy thì chết rồi. Thảo nào thấy bọn nó ngừng tấn công. Anh em đã vội coi thường lính sơn cước. Chúng nó thôi tấn công để triển khai các mũi bắt sống anh em đây mà.

Em bảo mọi người dừng lại hội ý nhanh. Tình hình là không thể đi qua con đường trước mặt. Hai bên là núi đá, vách dựng đứng. Có trèo được lên thì cũng chạm bọn Tàu phía bên kia. Chúng nó là lính sơn cước. Xuất thân là dân miền núi, leo núi nhanh hơn chạy bộ. Mình toàn dân đồng bằng, có mỗi thằng Vinh người Ba Vì, ở đấy còn có núi. Leo thi với bọn Tàu cầm chắc cái thua. Tiến lên không được, lui lại không song. Anh em ngồi xuống phiến đá bên đường, ngó nghiêng tìm chỗ nấp.

Đánh nhé, chết thì thôi. Cả năm anh em chưa ai lấy vợ. Chết rồi, bố mẹ khóc một ngày là nguôi ngoai. Thằng Luyện có người yêu rồi. Lúc nhập ngũ có ăn nằm với cô ấy. Chẳng hiểu có đậu giọt máu nào không. Nó sụt sịt ngồi khóc. Anh em chia nhau đều chỗ đạn. 5 thằng phá lệ chia tay nhau, nói lời vĩnh biệt, thằng nọ mong thằng kia sống để về chăm dưỡng bố mẹ của nhau.

Cứ hi vọng thế thôi. Chứ ai cũng cầm chắc cái chết. Sau màn chia tay, thằng nào thằng nấy vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Em chọn một phiến đá cao. Tựa lưng vào vách núi, mặt hướng ra đoạn đường vừa qua. Đằng nào cũng chết thì phải chết cho oai.

Một ý nghĩ loé lên. Chỗ nguy hiểm nhất là chỗ an toàn nhất. Bọn Tàu đang đuổi theo ta, tai sao ta không đi ngược lại chỗ chúng nó. Ít ra là thoát được trận này. Sau đó tuỳ cơ ứng biến. Em gọi mọi người, trình bày phương án. tất cả đồng ý. Em bảo mọi người bây giờ mình đang chơi trò mèo đuổi chuột. Vì vậy phải nhanh, gọn, giấu bớt súng đi chạy cho nhanh. Năm thằng lập tức quay ngược trở lại. Em vẫn giữ khẩu M79 vì nó cũng không nặng lắm.

Đúng như dự đoán, đi được một lúc thì bọn em gặp bọn Tàu. Chúng đi không nhanh, cẩn thận nhưng không lục soát dọc đường. Chúng nghĩ là bọn em đã chạy xa. Chúng đợi bọn em gặp cánh phục kích nổ súng thì chúng mới khép vòng vây. Chính vì điều đó, chúng đi qua chỗ 5 thằng nấp mà không hề hay biết. Em nhìn rõ từng thằng đi qua, thằng nào thằng ấy đi trên đá như bay.

Chúng chẳng to hơn anh em là mấy, nhưng rắn rỏi hơn nhiều. Khi thằng cuối cùng đi qua, đợi một lát cho an toàn, bọn em ra khỏi chỗ nấp. Thằng Tạo lại đái ra quần vì sợ. May lần này nó không bóp cò súng. Em bảo mọi người, bây giờ quay lại chỗ chúng nó đóng quân hôm qua. Trốn đấy là an toàn nhất. Vì khoảng 1,2 giờ nữa, 2 cánh quân gặp nhau, chúng sẽ xới tung cả cánh rừng này để truy lùng bọn em. Vì vậy, nơi ít có khả năng tìm kiếm chính là chỗ chúng vừa đóng quân.

Khi bọn em trở lại đến khe núi hồi sáng đánh nhau, chỗ quả lựu đạn nổ, không hề có vết máu. Lựu đạn mỏ vịt khi bật chốt, sáu đến bảy giây sau mới nổ. Chắc là chúng kịp chạy. Bọn em thận trọng leo lên lưng chừng núi. Mười mấy cái xác được xếp ngay ngắn, bọc bên ngoài bằng một túi nilon màu xanh, in ngôi sao bát nhất và chữ Tàu loằng ngoằng.

Chúng nó đã kịp căng lều dã chiến. Chắc bên trong có thương binh vì bọn em nghe thấy tiếng la hét đau đớn vọng ra. Thằng Vinh bảo trèo lên phía trên bọn Tàu rồi kiếm hốc đá nào ẩn náu. Em bảo lên trên dễ coi động tĩnh của bọn Tàu, nhưng sểnh chân, có hòn đá nào rơi xuống thì xong phim. Xuống thấp hơn chúng nó, khéo vẫn theo dõi được mà lại an toàn hơn.

Bình thường, chắc mấy thằng phải cãi nhau ỏm tỏi tranh nhau ai bắn trúng, Tàu chết nhiều. Bây giờ không ai còn tâm trí để đùa. Bọn em kiếm hốc đá ẩn tạm vào, giở lương khô ra ăn. Lương khô chỉ còn một ngày ăn. Bọn em không dám ăn nhiều, sợ phải ở lại đây vài ngày cho đến khi bọn Tàu rút lui.

Đến chiều, hai cánh quân gặp nhau đã rút về. Chúng nói oang oang. Tiếc là em không hiểu tiếng Tàu để nắm tình hình. Mọi người thấy thế bảo đêm nay rút luôn. Em vốn cẩn thận, bảo suy nghĩ cái đã. Em quyết đinh ở lại đêm nay, đến sáng mai nếu không thấy chúng đổi quân thì rút. Đêm hôm đó, anh em thay nhau gác. Mệt đờ đẫn nhưng chẳng dám ngủ.

Đến sáng, một số lính Tàu rời khỏi doanh trại, Chúng đi đổi ca cho bọn phục kích bọn em suốt đêm qua. May chưa. Nếu đêm qua bọn em mò mẫm về chắc bị chúng tóm sống.

Ngày hôm đó là một ngày dài nhất trong đời em. Em có cảm giác một ngày dài 100 tiếng chứ không phải 24 tiếng như mọi khi. Thằng Luyện mất nhiều máu, yếu lắm rồi. Nằm bệt trong hốc đá, thiêm thiếp ngủ. Thằng Tạo thì người khai lòm. Thằng này đến lạ. Vào trận đánh đấm không đến nỗi nào, cừ ra phết. Thế mà cứ trước lúc đánh thì lại hay ti rỉn ra quần.

Thằng Vinh tựa đầu vào tảng đá. Ngủ mơ, cười tủm tỉm một mình. Thằng này ăn khoẻ như trâu, chắc đang mơ được một bữa tuý luý. Thằng Minh ngồi một chỗ, không ngủ, không nói năng, mắt mở thao láo vô hồn, tay mân mê chốt an toàn quả lựu đạn. Em động viên tinh thần mọi người. Thành cổ Quảng Trị bé bằng cái nong tằm. Bộ đội ta rúc từ dưới cống ngầm đánh cả tháng có sao đâu. Bây giờ ở đây, rừng núi đại ngàn mịt mùng thế này. Bọn Khựa tìm chúng ta sao được. Anh em yên tâm, kiểu gì tao cũng có cách.

Em là thằng ít tuổi nhất bọn. Em nhập ngũ khi mới 17. Các chú ở phường còn bắt em xin chữ ký phụ huynh vào đơn nhập ngũ. Ngày về đơn vị huấn luyện, ma mới bị ma cũ bắt nạt, em đánh từng thằng không nương tay. Kết quả là bị thuyên chuyển sang đơn vị chiến đấu. Nhưng được cái, anh em nể phục, tin yêu, bảo gì nghe nấy. Nghe hơn cả mấy ông sỹ quan chỉ huy.

Chỉ một phút núng chí vào lúc này. Hậu quả sẽ khôn lường. Em bảo thằng Minh đưa em quả lựu đạn đang cầm trong tay. Chỉ sợ nó nghĩ quẩn, liều mạng với mấy thằng Tàu thì nguy. Đến lúc này, em thấy cần phải sống, cần phải về, không được manh động.

Mọi người đói lả. Không dám ăn nhiều lương khô. Em bảo, thôi ăn đi, ăn hết đi để lấy sức mà về đến Việt Nam. Tối nay, tao sẽ đi kiếm đồ ăn dự trữ. Thằng Vinh nghe thấy thế, cười rạng rỡ, cho một phong 702 vào mồm, nhai nhồm nhoàm. Thiếu nước, nó bị nghẹn, mãi mới nuốt được. Em bò xuống khe lấy nước cho anh em. Đói thì 30 ngày mới chết, khát thì chỉ 3 ngày là chết.

Mấy thằng Tàu đang tắm dưới suối. Em chỉ cách chúng nó khoảng 20m. Quần áo, súng đạn chúng vứt đầy trên bờ. Ngon quá, nếu mà không sợ bị lộ, em nấp ở đây, kéo một băng, máu bọn Tàu sẽ hoà với nước suối, chảy về xuôi, gột rửa cho những linh hồn đồng đội đã ngã xuống vì quê hương.

Buổi chiều, chúng nó lại đổi quân. Chúng quyết bắt sống anh em. Em lẩm bẩm, may bọn này là lính sơn cước, trèo núi thì nhanh nhưng hơi bị ngu. Gặp lính biên phòng, dùng chó nghiệp vụ đánh hơi thì bọn em không thoát được.

Tối đến, anh em đã xơi hết khẩu phần lương khô. Em sẽ đột nhập doanh trại bọn Tàu, kiếm cái ăn. Định mặc mỗi cái quần đùi và mang theo con dao găm cho gọn nhẹ. Thấy không ổn. Lính hà nội cởi quần áo ra da trắng như cục bột. Không trăng không sao, kẻ kém mắt cũng phát hiện ra. Em lại mặc quần áo vào, kể ra cũng hơi vướng víu, nhưng chịu đuợc.

Bọn Tàu đang ăn tối. Chúng cũng tổ chức sáu người một mâm như quân đội ta. Mỗi thằng một bát canh, to bằng cái chậu rửa đít của chị em. Mùi thức ăn bay ra làm em nuốt nước bọt ừng ực. Không khéo tiếng nuốt nước bọt gây ra tiếng động lộ thì chết. Em không nuốt nữa, nước dãi túa ra 2 bên mép, chảy cả xuống cổ.

Một thằng ăn xong, bô lô ba la cái gì đó rồi đi ra ngoài. Nó đứng ngay cạnh em, cởi khuy quần rồi đ ái tồ tồ. Đái mãi không hết. ăn nhiều uống nhiều thế kia cơ mà. Em không dám thở, sợ nó nghe thấy. Gần quá. Em có cảm giác, quàng tay một cái, làm đến roẹt, đứt ngay động mạch cảnh, kêu đằng giời. Tay nắm chuôi dao, tay kia sờ vào lưỡi xem có đủ độ sắc làm một nhát không. Nếu nó nhìn thấy em, chỉ cần có một hành động bất thường, em sẽ thịt nó ngay. Rồi sau tính tiếp. May quá, nó đ ái xong, đứng vung vẩy cho hết nước rồi vào lán.

Chúng nó đã ăn xong. Bọn nuôi quân đang thu dọn bát đĩa. Em bò vào gần bếp dã chiến. Mắt em hoa lên: thịt hộp, lương khô, thực phẩm để tràn trề trong những hòm gỗ thông sơn màu xanh ***** ngựa.

Em lấy một cái túi bẩn vứt ở đấy, cho một số đồ ăn vào, bò ra. Vừa đi vừa nghĩ không biết chúng nó có phát hiện ra mất túi không. Liều quá. Thôi thây kệ, chắc chả chú ý đến cái túi này đâu, mà hình như chúng nó vứt đi rồi thì phải.

Xuống đến nơi. Mấy anh em mồ hôi vã như tắm. Chúng nó ngồi dưới sợ hơn em bò lên. Chúng nó lo cho em. Em bảo, sợ cái đ… gì. Tao mà không đi lính, thì chắc tao cũng đi ăn cắp. Thầy tử vi xem cho tao lúc tao mới sinh bảo thế. Em pha trò nhưng không thằng nào dám cười. Chúng nó sợ quá, mất cả khôn.

Em dùng lưỡi lê, mở hộp thịt, bón cho thằng Luyện. Nó trệu trạo nhai, mãi không nuốt được. Em đành cho nó húp nước thịt. Em bảo nó cố mà ăn. Ăn để sống. Sống để về xem cái đứa kia có mắn đẻ không. Nó cười cười rồi lại thiếp đi. Cánh tay nó đã cầm máu, nhưng nhiễm trùng, sưng to, đỏ lựng như bắp chuối. Người nó nóng hầm hập.

Lại một đêm không dám ngủ. Em bị bệnh nghiến răng, ngủ là nghiến ken két. Trời đất âm u thế này, tiếng nghiến răng vang cả cây số. Bọn Tàu trên kia mà nghe thấy, có không biết là tiếng nghiến răng của người, cũng tưởng của thú. Phệt cho một quả na xuống đây thì chết oan. Em bật lưỡi lê. Ngồi tựa vào vách đá, mở mắt trừng trừng. Thi thoảng cái đầu lại gật xuống. Mũi lê đâm vào trán, tỉnh ngủ ngay.

Đã sang đến ngày thứ tư bên đất Tàu. Sáng hôm đó, chúng vẫn đổi quân phục kích. Em bảo mọi người cố chờ nốt hôm nay. Nếu tối nay, chúng rút bọn phục kích về, bọn em sẽ rút trong đêm. Ban ngày, ngủ gà gủ gật. Anh em chia nhau cảnh giới xem động tĩnh của bọn Tàu trên sườn núi. Đến chiều, ca thằng Vinh gác, nó vội lay em dậy, bảo ra xem lạ lắm.

Em trườn ra ngoài, tìm một chỗ kín đáo, lấy thêm cây rừng che cho chắc chắn, chăm chú quan sát. Hình như bọn Tàu tăng thêm quân. Lính Tàu ở đâu kéo về đông lắm. Chết rồi, thế này thì không có cơ hội rút về đêm nay rồi. Mồ hôi rịn ra ướt cả áo. Nhưng mà lạ thật. Có thằng bị thương, đi đứng tập tễnh. Có bọn khiêng xác, nhiều lắm.

Thôi đúng rồi, bọn này chính là bọn tấn công điểm cao mà trung đội em sẽ đánh vu hồi đây. Tức là trận chiến đã xảy ra. Ở đây khuất núi, không nghe được tiếng súng. Anh em ơi, ở nhà có ai việc gì không? Chính ơi, mày có còn để sáng sáng ***** sang đất Tàu nữa không? Mà trung đội em không biết có kịp về đến nơi tập kết để táng nhau với bọn này không?

Em trở lại vị trí trú ẩn. Trao đổi tình hình và nhận định với anh em. Cũng có khả năng, bọn Tàu thương vong thế này, chúng sẽ rút vào đêm nay hoặc sáng mai. Cũng có thể, đại đội sơn cước đang đóng trên kia, là lực lượng hỗ trợ cho đơn vị đánh điểm cao. Nhưng bất ngờ gặp bộ đội ta, suy đoán tình hình không chính xác nên cố thủ ở đây.

Mà cũng có thể, cả đơn vị này nhập vào một, củng cố đội hình, lấy địa điểm này làm căn cứ rồi lại tiếp tục đánh lấn sang đất ta. Em cứ suy nghĩ miên man mà không có lời giải đáp cụ thể. Em bảo thằng Vinh, lên theo dõi tiếp xem chúng có căng thêm lều bạt dã chiến không. Thằng Vinh báo về, hình như chúng đang thu dọn. Bọn em thở phào.

Đến chiều. Chúng vẫn chưa có dấu hiệu chuyển quân. Em bắt đầu thấy lo. Thương binh mới rống như bò trong mấy lều quân y. Bọn nó vẫn đổi ca đi phục kích.

Tối hôm đấy, mọi người ăn tiếp chỗ thực phẩm lấy trộm của bọn Tàu. Bây giờ bọn chúng đông quá, em không dám mạo hiểm trộm cắp một lần nữa. Một đêm căng thẳng và không ngủ lại trôi qua.

4h sáng, thằng Tạo lay lay em thì thầm, chúng nó đang rút. Chúng nó đang rút thât. Chúng đang xuống núi. May quá, đường chúng leo xuống cách xa bọn em cả trăm mét. Nó mà xuống đường này có khi anh em không kịp chạy.

Em hội ý nhanh. Rút thôi. Nhưng không rút theo đường cũ. Sẽ rút theo đường vòng qua quả núi kia. Nếu vẫn còn bọn phục kích. Mình sẽ xuất hiện sau lưng chúng nó. Mình chủ động, nó bị động. Mình sẽ đánh vượt mặt chúng nó để về. Bọn Tàu ở đây chắc cũng rút khá xa, chúng không kịp gửi quân viện trợ đâu. Mà quân viện trợ có đến nơi, thì có lẽ mình đã ngồi rung đùi uống rượu trong hầm rồi. Còn bọn phục kích trong lòng thung lũng này, không sợ lắm, vì chúng mệt mỏi lắm rồi. Vả lại, lúc đó, mình trên cao, nó dưới thấp, thoải mái mà nện.

Bọn em kiểm tra lại đạn dược. Không đến nỗi tồi. Khó khăn nhất là thằng Luyện, nó không đi được nữa, mê man, mụ mị. Em bảo thằng Tạo và thằng Vinh hai đứa 2 bên dìu thằng Luyện. Khi nào gặp địch thì quảng nó vào hốc đá nào rồi đánh. Em đi trước, 2 thằng dìu Luyện đi giữa, thằng Minh đi cuối.

Bọn em đi chậm vì có thương binh, vả lại đi chậm để dò đường và nghe ngóng. Quả như em dự đoán. Đi được 2 tiếng, trời đã sáng rõ, em phát hiện ra bọn phục kích. Chúng có khoảng hơn 10 thằng. Chúng đang tập thể dục cho người ngợm đỡ mỏi vì cả đêm nằm phục.

Theo thường ngày thì giờ này chúng sắp đổi ca. Vì vậy chúng rất mất cảnh giác. Phía trước chúng có rất nhiều tảng đá để che chắn, nhưng sau lưng chúng, đối diện với bọn em lại tơ hơ. Chúng không nghĩ là bọn em đi đường này. Em ra hiệu cho mọi người. Tìm chỗ nghỉ ngơi cho Luyện.

Nó đã tỉnh, nó thều thào xin quả lựu đạn. Nó chỉ đủ sức để nếu có mệnh hệ gì thì dùng răng cắn chốt quả lựu đạn. Một giọt nước mắt lăn trên gò mà nó. Em thấy cay sống mũi, nhưng không còn thì giờ nữa. Em nhanh chóng tìm vị trí chiến đấu. 3 thằng kia cũng vậy. Thằng Tạo đi khom, vừa đi vừa lấy tay gại gại đũng quần. Chắc lại ti rỉn rồi.

Cả bốn thằng cùng đồng loạt nổ súng và hô xung phong. Thét xung phong chứ không còn là hô nữa. Cho khí thế, cho áp đảo. 5, 6 thằng Tàu gục ngay sau loạt đạn đầu tiên. Lũ còn lại nháo nhác như ong vỡ tổ. Thằng vội đi lấy súng. Có thằng đang ị hớt hải không kịp kéo quần cứ thế bò lê tìm chỗ nấp.

Bọn em tiếp tục bắn, bình tĩnh tiêu diệt từng thằng. Bọn tàu bắt đầu bắn trả. Đạn đập bôm bốp vào vách đá xung quanh em. Thằng Tạo ném một quả lựu đạn về phái sau tảng đá. Cùng với tiếng nổ là vài cái mũ bay lên. Bọn Tàu bị đánh bất ngờ, lại vào thời điểm bất ngờ, khiến chúng không kịp trở tay.

Trận đánh kéo dài độ 20 phút. Mấy thằng Tàu còn sống đã bắn hết đạn. Lúc cuống chúng chỉ kịp vớ lấy súng. Mỗi khẩu cùng lắm có 30 viên. Chúng không dám bò ra chỗ để đạn, thằng nào bò ra em bắn rát rạt. Chúng cởi áo may ô mắc lên đầu súng xin hàng.

Chúng không dám đợi viện binh ở phía bên kia núi, trong thung lũng. Chỉ sợ bọn em tung thêm mấy quả lựu đạn thì chấm dứt. Em bảo thằng Tạo và thằng Minh bắn yểm trợ, em và thằng Vinh bò ra bắt chúng nó. Đầu tiên, em vứt hết vũ khí đạn dược của chúng xuống vực.

Sau tảng đá, có 6 thằng Khựa, mặt mũi tái mét, run rẩy. Có thằng vẫn đang mặc quần đùi. Có thằng chưa kịp lấy súng. Thằng Vinh bảo bắn hết chúng nó đi trừ hậu hoạ. Em bảo không được. Chúng nó là tù binh. Vinh cãi nhưng mình có đem về Việt Nam được đâu. Em bảo Vinh trói chân trói tay bọn nó lại đã. Vinh sợ đi rồi thì chúng sẽ cởi trói cho nhau.

Em bảo cứ yên tâm. Sau khi trói tay trói chân từng thằng, em trói 6 thằng quay lưng vào với nhau. Gài một quả lựu đạn rút gần tuột chốt vào nút trói. Chúng mà gỡ, chốt tụt. 6 thằng đang dính chặt thế này, chạy đường giời. Trừ khi có thằng khác đến gỡ. Số súng còn lại, thằng Vinh tháo qui lát, vứt thật xa xuống vực. Thằng Tạo đã kịp thời mót được mấy phong lương khô của bọn Khựa, đưa cho thăng Vinh một thanh. Lương khô bọn này ăn ngon hơn của ta.

Em ra hiệu rút nhanh. Theo như dự tính, khoảng một tiếng sẽ gặp nốt toán còn lại. Lần này đánh sẽ gay go hơn vì chúng nó cũng chủ động. Mình chỉ có lợi điểm là ở trên cao và bí mật về lực lượng.

Không đầy một tiếng, cánh quân kia xuất hiện. Không đông như toán trước, nhưng chúng tiến cẩn thận hơn. Vừa đi, chúng vừa tìm địa thế ẩn nấp. Em ra hiệu cho mọi người tản ra. Phương án tác chiến lần này phải thật bài bản. Đầu tiên bắn rát xung quanh toán quân, khiến chúng co cụm lai, em sẽ dùng M79 phệt cho chúng chết có bầy, xuống âm ty có bạn có bè.

Mọi việc diến ra như mong muốn. Nhóm đầu tiên, vụt một quả M79 chơi 6 thằng. Bọn còn lại biết có bên ta có hoả lực mạnh, chúng không co cụm nữa. Bên chúng có một khẩu trung liên, khạc đạn điếc nhĩ. Chúng còn độ 5 tên, như vậy là tương đối cân bằng lực lượng.

Bây giờ cứ thong thả mà đánh. Bọn viện trợ có tới được cũng phải mất nửa ngày đường. Trận chiến có vẻ căng thẳng, lựu đạn 2 bên đều không nhắm tới. Em lấy cái mũ sắt cướp được của bọn tàu, đội lên đầu súng, thò một chút xem sao. lập tức đạn va choang choang, tay rung bần bật.

Vị trí của em thế là mất thế thượng phong rồi. Chắc là lúc em tụt xuống để thay băng đạn thì chúng trồi lên đây. Em tính kế trườn ra chỗ khác. Khó quá, mình giơ cái mũ mà đã thế. bây giờ quăng thân ra khác gì bị thịt. Đang suy nghĩ lung mung thì chợt nhìn thất khe hở giữa 2 phiến đá, to gần bằng cái bát. Giời thương ta rồi, khác gì lỗ châu mai đâu.

Em kê súng vào khe hở, tìm mục tiêu. Mấy chú thấy em không bắn, nhấp nha nhấp nhổm, có lúc thò cả nửa đầu lên khỏi chỗ ẩn nấp. Em bình tĩnh lấy đường ngắm. Cái đầu kia kìa, của thằng giữ trung liên. Em nín thở bóp cò. Cái đầu bật ngửa ra đằng sau. Tiếng mũ sắt đập vào đá kêu loảng xoảng. Bọn Tàu thấy vậy vội thụp xuống, anh em vội trồi lên lấy đường ngắm trước. Thế thượng phong laị thuộc về ta.

Em bảo mọi người bắn áp đảo để em bò lên ném lựu đạn. Anh em bắn rát ràn rạt, không thằng Tàu nào dám ngóc đầu lên. Em vừa bò vừa lăn, chỉ sợ cậu nào chúi mũi súng xuống đất thì em tiêu đời. Em rút chốt quả lựu đạn thứ nhất, buông mỏ vịt cho búa đập vào nụ xoè, đếm đến 3 mới ném. Quả thứ 2 cũng thế. Mỗi một quả, hi vọng một tằng chầu diêm vương.

Anh em tranh thủ lúc chúng rối trí, thay đổi vị trí ẩn nấp có lợi hơn. Vừa di chuyển, vừa nhả đạn. Bọn tàu bắt đầu rút chạy, chúng còn 3 tên. Lần này thì anh em quyết không để sổng trừ hậu hoạ.

Sau khi tiêu diệt tên cuối cùng. Mọi người nhìn nhau vui mừng, nhưng không ai nói gì. Bốn anh em thay nhau rìu Luyện. Cứ nhằm thẳng hướng Nam mà tiến. Đến chiều tà, không biết đã về đến đất Việt hay chưa. Đang đi, bỗng dưng em bị ai đó ôm chặt chân, đẩy ngã dúi về phái trước. Ngay lập tức bị một cái bao tải chùm lên mặt, tay bị trói nghiến.

Em ho sặc sụa vì cái bao tải hôi quá. Sơ sểnh quá đi mất anh em ơi, đánh mãi không ai chết, bây giờ lại bị chúng nó bắt sống. Em còn đang ho, chưa kịp hoàn hồn, nghe thấy tiếng lào xào báo cáo tiểu đội trưởng bắt được 5 thằng Tàu, trong đó có một thằng bị thương. Giời ơi, hoá ra là quân ta. Em thét lên. Người nhà, người nhà.

Cậu tiểu đội trưởng nghe thấy thế vội bảo anh em bỏ cái bao tải trùm kín mặt bọn em. Em thều thào đọc mật khẩu: Quê hương, quê hương…

Cậu tiểu đội trưởng sững người một lúc rồi bảo mật khẩu đã thay đổi. Em bảo em đánh nhau bên kia năm ngày nên không biết thay đổi thế nào, chỉ biết mật khẩu cũ hỏi Quê hương, trả lời Đất mẹ.

Cậu tiểu đội trưởng bỗng xẩy xổ đến ôm chầm lấy em, miệng lẩm bẩm, lính 301 hả? Mọi người tưởng các cậu đi rồi. Hôm qua vừa có điện từ chỉ huy mặt trận xuống các đơn vị nêu gương hi sinh anh dũng của các cậu.

Thế là bọn em về được đến Việt Nam, sau năm ngày đấu trí đấu súng. Em cũng không hiểu, sau này các ông nhà văn viết truyện toàn lấy ở đâu đâu, còn vụ của em thì không thấy ai đả động đến, hay là vì điều gì tế nhị chăng.

Bọn em cũng không kịp hỏi những người lính vừa bắt bọn em thuộc đơn vị nào. Gặp người nhà là mừng lắm rồi. Họ bảo về chỗ họ ăn uống, nghỉ ngơi rồi về đơn vị sau. Em hỏi đơn vị em còn cách bao xa, đi như thế nào. Cậu tiểu đội trưởng bảo một người lính dẫn đường rồi dùng máy 2W gọi về sở chỉ huy, thông báo về tình hình của bọn em.

Hoá ra chỗ này chẳng xa đơn vị em là bao nhiêu, vòng qua mấy quả đồi trọc, trèo lên con dốc đi một đoạn là thấy. Chỉ có một đoạn đưòng chừng 5km đường chim bay mà bọn em đi hết 5 ngày. Bây giờ nghĩ lại, vẫn thấy tởn.

Anh em đơn vị nghe báo bọn em về. Mừng quá, nhiều người chân đất cởi trần chạy xuống chân dốc đón. Thằng Sơn rùa vừa chạy vừa khóc hu hu. Gặp em, nó bảo tao tưởng bọn mày không về tao ân hận cả đời. Em bảo trinh sát luồn sâu mà đi rừng như cứt.

Anh em không cho bọn em đi, họ bảo bọn em đã quá mệt, bọn em xứng đáng để họ khênh lên núi. Một phần vì mệt, một phần không muốn phụ lòng tốt của mọi người, mấy thằng nằm tơ hơ ra cho anh em khiêng. Mọi người đưa luôn bọn em về tiểu đoàn.

Tiểu đoàn trưởng là lính đánh Mỹ. Gan ông là gan cóc tía. Ông đã từng đánh giáp lá cà cùng lúc với 2 thằng Mẽo. Ông chạy ra đón từ đầu chiến hào. Ông vỗ vai, lắc lắc rồi ôm từng thằng. Mắt ông ngấn nước.

Ông bảo chúng mày khá lắm, lính mới mà thế này thì có thằng giặc nào mà ta không thắng. Ông nói tiếp, hồi trưa, ông có nghe thấy tiếng súng bên kia bên giới, ông hỏi sở chỉ huy xem có đơn vị nào tác chiến bên ấy không. Trên sở chỉ huy cũng không biết gì. Ông không dám nghĩ là mấy thằng còn sống đang choảng nhau với địch. Ông đoán là bọn Tàu bắn nhầm nhau.

Thằng Luyện được đưa ngay về tuyến sau trong đêm hôm ấy. Mãi sau này em mới gặp lại nó, một ống tay áo gió thổi bay phất phơ. Nó bảo cánh tay ấy bị hoại tử, phải tháo khớp.

Em báo cáo chuyện không mang được súng về vì lý do bảo toàn tính mạng. Tiểu đoàn trưởng trầm ngâm. Ông là lính già, đánh hàng trăm trận, ông biết việc bảo toàn vũ khí đạn duợc rất khó. Nhưng quân lệnh là như thế. Mất súng là có tội. Ông sẽ xem xét tình tiết cụ thể để báo cáo cho trung đoàn sau.

Em về đến hầm, thằng Chính đang ngồi đợi. Nó nhìn em cười. Nó bảo may cho bọn em, nó không tạm biệt nên em còn sống để về. Em bảo, 5 thằng bọn tao còn vĩnh biệt mà bây giờ vẫn sống nhởn thì sao? Nó cười, tí nữa thì thiếu một thằng buổi sáng cùng nó đ ái sang đất Tàu. Mà bây giờ phải cẩn thận đấy. Bọn Tàu đang ở gần lắm, nó dùng súng bắn tỉa, suýt nữa thì tao cụt mất chim. Nói xong nó cười nắc nẻ.

Em lăn vào hầm, bảo nếu bọn bộ binh Tàu tấn công thì đánh thức, còn pháo bắn thì mặc kệ, cho em ngủ một bữa. Nói chưa dứt câu, răng em đã nghiến kèn kẹt. Cũng không biết là em ngủ bao lâu. Có lẽ phải một ngày một đêm. Khi em bừng mắt là gần chiều. Thằng Chính đang ngồi lau súng ở cửa hầm. Nó hỏi đói không, ăn cơm đi. Bữa nào nó cũng đi lấy cơm cho em, sợ em thức giấc thì có cái ăn ngay.

Em đói quá, và một lúc hết ngay đống cơm nguội. Nó bảo, đại đội phó chính trị xuống bảo khi nào thức thì viết bản tường trình. Em hỏi lại, bản tường trình mất súng hay bản báo công? Nó bảo không rõ và ngạc nhiên, ơ thế 2 cái đấy khác nhau à?

Lúc này em mới nhớ đến trận đánh vừa rồi. Em hỏi nó chuyện đánh đấm thế nào? Nó kể:

“Bố tiên sư cái bọn Tàu. Sau khi bọn mày đi nửa ngày, pháo bắt đầu rót xuống điểm cao”. Em hỏi lại, cối hay pháo? Nó à lên “chắc là cối”. Chúng bắn lâu lắm, lâu hơn mọi khi nhiều lần. Mà lính mình đã làm sạch cả một vùng, làm sao mà trinh sát pháo của nó vẫn bò vào trận địa để hiệu chỉnh nhỉ. Bọn nó bắn trúng lắm”.

Em bảo, cối thì cần đ… gì trinh sát, ở bên kia nó dùng ống nhòm cũng chỉnh được. Nó lại ừ nhỉ. Đúng là đồng chí nông dân, đánh trận mãi mà vẫn chưa phân biệt được cối với pháo.

Nó tiếp: “Tao có dám bò ra khỏi hầm đâu, nằm bẹp dí. Đại đội trưởng đội mũ sắt, theo giao thông hào đến từng hầm động viên anh em chiến sỹ. Ông ấy bảo tý nữa là nó đánh lên đấy. Chuẩn bị tinh thần. Chẳng bảo thì tao cũng chuẩn bị tinh thần. Oánh đến trận thứ 6 mà không biết sau cối thì bộ binh xung trận thì ngu quá mày nhỉ”.

Em hưởng ứng, ngu thật! Nó lại tiếp tục “Lần này khác, không đợi pháo… à… cối dứt, súng bộ binh của Tàu đã nổ chí chát dưới chân điểm cao. Bỏ mẹ. Trên vẫn giã cối, dưới bộ binh vẫn xung trận. Chắc đợi bộ binh áp sát trận địa thì cối mới dừng đây. Bên ngách bên cạnh, trung liên của thằng Lượng đã réo rắt nhả đạn. Mả bố khẩu súng ấy như ma làm, lúc thì bắn hay thế, lúc thì hóc liên tục. Tao đội mũ sắt, lao ra ngoài. Mảnh đạn cối bay vèo vào trên đầu. Dưới chân dốc. Bọn Tàu đang tranh thủ triển khai chiến thuật. Chúng lợi dụng khi cối bắn thì anh em mình rúc cả dưới hầm. Một quả đạn cối thối liều, rơi ngay dưới chân dốc. Đạn nó giết chúng nó. Ba bốn thằng bay lên phất pha phất phơ. Đúng là đạn của chúng nó mà. Gần thế, cối mình sao bắn được”.

Em hỏi lại, cối nó nện chính xác lắm à? Quân nhà mình thương vong nhiều không? Chính kể tiếp: “lúc đầu thì anh em chui tịt dưới hầm ếch, bịt tai nhắm mắt thây kệ nó bắn. Sau thấy bộ binh chúng triển khai nên ai nấy vào vị trí chiến đấu. Lúc ấy bắt đầu thương vong nhiều. Cái hầm của thằng Trung kia kìa… đấy… chỗ hố đạn đấy. 3 thằng đi một lúc. Thằng Trung chỉ tìm thấy cái đùi phải với cái mũ sắt. Tội nó quá, nó mới lấy vợ”.

Em kêu thế à và bảo nó kể tiếp đi, đừng lan man quá.

Nó tiếp: “Bọn này nó hiểm quá. Nó triển khai bộ binh đểu dụ lính mình ra khỏi hầm để cho cối nện. Mà lúc ấy, quân mình đã nghĩ đến chuyện ấy đâu. Cứ sợ bất cẩn một chút, bộ binh nó ào lên thì hối không kịp. Mấy bố sỹ quan chạy đôn chạy đáo hò hét anh em vào vị trí chiến đấu. Sợ bỏ mẹ, mảnh đạn bay rèo rèo trên đầu như thế ai mà chẳng sợ”.

Em hỏi lại, sao mình không ào xuống đánh bỏ mẹ chúng nó đi. Chính bảo: “Mày ngu, đ… hiểu gì về binh pháp, mình chỉ cần dốc quân ra khỏi vị trí cố thủ, là bộ binh nó rút ngay về bên kia. Lúc đó không chỉ là mấy khẩu cối đểu đang bắn, mà cả họ hoả lực nhà chúng nó trút lửa vào mình. Chạy về cũng chả kịp”.

Em à lên một cách ngớ ngẩn. Đúng là em chưa có nhiều kinh nghiệm chiến trường. Mấy ngày choảng nhau bên kia, một phần là bản năng cá nhân, một phần là sự thông minh đột xuất giữa cái chết và cái sống. Mà có lẽ, phần nhiều là may mắn nên mới thoát chết. Giờ về trạng thái bình thường, thấy mình ngô nghê thật.

Thằng Chính lại kể tiếp: “Ông Lượng, tiểu đoàn trưởng lo sốt vó, theo ông ấy dự tính thì giờ cái trung đội của mày phải thịt xong lũ cối rồi chứ. Sao mà chúng nó vẫn ngang nhiên khạc đạn thế kia. Ông động viên anh em, sống chết cũng phải bám chiến hào nhé. Đội bom đội đạn để bám chiến hào. Sểnh một tý là mất điểm cao đấy. Mà lúc ấy, bọn tàu vẫn không xông lên, cũng chẳng rút lui. Thi thoảng chúng lại bắn cạch cạch đùng đùng trêu ngươi. Đạn cối vẫn nện đều đặn. Ông Lượng liên lạc với sở chỉ huy xem có tin tức của trung đội mày ko. Trên đấy bảo không. Ông ấy càng lo. Tao cáu quá, lấy khẩu B41 của thằng Tình bò xuống phía dưới, tìm cái thằng cạnh đùng ấy, phụt cho nó một phát.

Trượt mới đau chứ. Lúc ấy cuống, tao quên mẹ nó mất B41 lấy đường nhắm ngược với chiều gió. Tao lại lấy xuôi chiều gió như B40. Có mỗi viên đạn, bắn xong thấy tiếc quá, bao nhiêu công mới bò được xuống đây, giờ bắn trượt lại hết đạn. Mà cái khẩu B41 này, hết đạn khác gì cái tuýp nước đâu mày nhỉ, vô dụng quá. Tao lại bò lên. Ông Đại đội trưởng đang gào khản cổ, lạc giọng, yêu cầu triển khai cái này, triển khai cái kia. Thương binh bắt đầu nhiều. Phần lớn là bị mảnh đạn. Trung đội 24 (quân y) chạy ngược chạy xuôi không hết việc. Ông Luợng thương lính quá. Thế gọi là nướng quân đây. Ông ra lệnh chia nhau ra mà xuống hầm tránh đạn. Chỉ giữ lại trên này ít thôi.

Chắc ông đọc được chiến thuật của mấy thằng Khựa dưới kia. Toàn bộ những người nằm trên đều phải bắn. Không trúng cũng bắn, không có địch cũng bắn. Bắn rát vào để bộ binh chúng không có cơ hội tiến lên. Anh em toàn tụt dưới hào, giơ súng lên đầu nhả đạn đấy chứ. Thay phiên nhau như thế. Lượng thương binh giảm hẳn. Đến chiều, cối ngừng bắn, bộ binh chúng cũng rút. Ông Lượng nhận xét tính hình, nếu chúng nó dùng chiến thuật này, chắc chắn tối nay chúng sẽ không đánh. Chúng sẽ đánh vào ngày mai, cốt để lính ta nhìn thấy mà chui ra khỏi hầm để hứng pháo. Thế là tối hôm đó tao ngủ một giấc ngon lành”. Hôm sau, cả buổi sáng, toàn bộ mọi người chuẩn bị tinh thần chiến đấu. Mấy thằng hôm qua bị thương nhẹ cũng không chịu lui về tuyến sau. Vài thằng nghĩ ra sáng kiến lấy mũ sắt của anh em dưới hầm, đội liền 2 cái cho chắc chắn, bám trụ ngoài chiến hào.

Đến trưa, bọn Tàu vẫn không có động tĩnh gì. Không hiểu chúng nó định giở trò gì đây? Chúng định chơi kiểu xa luân chiến ư? Đợi cho lính nhà mình kiệt sức và thương vong nhiều mới tấn công ư? Tao đề nghị ông Luợng cho một số anh em dũng cảm, mang theo hoả lực mạnh, bò xuống, cận chiến khiêu khích.

Ông Lượng không đồng ý, ông ấy bảo sẽ đánh thế nhưng không phải là lúc này. Bây giờ cái quan trọng nhât là khoá mõm những khẩu cối lại. Mà lúc ấy bọn mày ở đâu nhỉ, đi hơn một ngày rồi còn gì?”.

Em lẩm bẩm, thôi, kể kiếp đi, biết rồi còn hỏi làm gì.

Thằng Chính tiếp: “Đến trưa, mọi người đang ăn, mặt đất rung lên bần bật, đất đá rơi rào rào. Mọi người bật dây, xách súng sách mũ chạy ra. Chúng nó tăng cường thêm hoả lực mày ạ. Rõ ràng là tiếng nổ của pháo 105 xen lẫn cối 82. Bọn Tàu lại bắt đầu triển khai quân. Ông Lượng ra lệnh giữ nguyên chiến thuật hôm qua để bảo toàn lực lượng.

Bọn tàu bắn độ 1 tiếng thì thấy đạn rơi lung tung, không chụm nữa, sau thấy thưa dần rồi tắt hẳn. Ở đây nghe thấy tiếng súng vọng về. Ông Lượng không kìm được, nhẩy lên khỏi chiến hào hô: ” Trung đội 4 khoá mõm được hoả lực rồi. Đại đội 2 bảo vệ điểm cao, 2 trung đội còn lại của đại đội 1 theo tôi đánh xuống phía dưới. Anh em hô xung phong ầm ỹ, vừa hô vừa tập hợp lực lượng. Dưới núi, bọn Tàu bắt đầu hoang mang.

Chúng không giữ được bình tĩnh như hôm qua nữa. Bọn nó bắt đầu vỡ trận. Không có cối, pháo iểm trợ là bọn nó hoảng rồi. Ông Lượng dẫn 2 trung đội xuống, vừa tiếp cận vừa bắn. 2 trung đội lại chia thành nhiều nhóm nhỏ. Mỗi nhóm khoảng 4,5 người. Nhóm nào cũng có hoả lực, ít ra thì trung liên, không thì B40 hoặc M79. Bọn Tàu cũng đánh trả, vừa đánh vừa rút”.

Em hỏi Chính lúc đó ở trên hay ở dưới.

Nó bảo: ”Ở trên, tao thuộc ở trung đội hoả lực cơ mà. Quân mình đánh cho chúng nó ra xa, rơi vào tầm ngắm của trung đội tao. Lúc ấy cối mình mới nện. Sướng tay lắm mày ạ. Bộ đội mình được lệnh lui quân, không đánh tiếp nữa. Ông Lượng bảo đánh nữa là lọt vào vòng vây của nó. Bởi lực lượng đánh chiếm điểm cao thật sự chưa xuất hiện, chúng còn đang ém quân đợi lệnh.

Thằng Quân mông béo bò nhấp nha nhấp nhổm, bị bắn mất một miếng thịt sấn, không ngồi được la oai oái”.

Em hỏi tiếp, thế đêm hôm ấy nó có đánh không?

Chính bảo: “Không, đêm hôm ấy nó không đánh. Ông Luợng đoán sai. Chẳng hiểu vì sao nó không đánh. Nhưng mới sáng sớm thì nó đánh. Chắc nó đợi cả đêm lính mình thức, gần sáng quá mệt rồi thì nó mới đánh. Đêm qua lính nó sang đông quá. Chỗ nào cũng tháy chúng nó. Đằng trước, đằng sau, hai bên đều thấy bọn quấn xà cạp. Ông Luợng lo quá. Không nghĩ là chúng đông thế này. Lực lượng đánh tập hậu thì có mỗi trung đội mày. Hôm qua đã chiến với bọn cối rồi, không biết thương vong thế nào. Mà có còn nguyên vẹn thì cũng mỏng lắm so với chúng nó.

Chúng bắt đầu tấn công. Chúng áp sát điểm cao nhanh lắm. Khẩu trung liên của thằng Lượng đang nổ như pháo rang bỗng câm tịt. Tao tưởng nó dính rồi, vội bò sang ngách bên ấy. Nó đang ngồi thụp xuống móc vỏ đạn hóc. Khẩu súng lại giở chứng, bây giờ chỉ bắn cắc bụp như súng trường. Tao bảo thằng Luởng vất mẹ nó khẩu ấy đi, lấy AK mà đánh. Nhanh lên không nó tràn vào bây giờ. Tầm bắn lúc ấy khoản 100 đến 300 mét, lựu đạn vô dụng.

Vài anh em chỉnh lại hướng bắn của cối 60, nện thẳng vào chúng nó. Cối bắn gần thế nguy hiểm lắm, mình chết như chơi. Nhưng thây kệ, Chúng nó đông quá mà. Ông Lượng chạy đi chạy lại. Ông gọi điện về trung đoàn yêu cầu tăng thêm quân. Chúng nó khép vòng vây rồi. Bắt đầu thấy tiếng súng của trung đội tập hậu. Ông Lượng mừng quá, động viên anh em đánh mạnh vào. Quanh tao bỗng sáng nhoà, nóng hừng hực.

Bỏ mẹ, chúng nó thổi B40 đấy. Tiếng súng của thằng Lượng tắt hẳn. Vài cụm lửa kèm theo tiếng nổ lớn giữa lực lượng chúng nó. Lúc ấy, tao cũng chẳng hiểu là hoả lực gì. Bọn nó nhốn nháo, chạy tứ tung. AK của tao bắn nẩy tưng tưng, tê tay quá. Khẩu của mày là đời sau, có khuyết chống nẩy. Khẩu của tao khác đ… khẩu cạcbin. Tao chạy sang lấy khẩu súng của thằng Lượng. Nó tựa lưng vào vách hào, mắt vẫn mở trừng trừng. Máu rỉ ra từ tai và mũi. Tao cũng chẳng kịp vuốt mắt cho nó. Vơ vội khẩu súng là nhổm lên táng tiếp.

Bọn Tàu bắt đầu chia nhỏ quân ra theo từng nhóm. Một vài nhóm đã tiến đến gần ta lắm rồi. Tao thấy ông đại đội trưởng rút súng ngắn ra bắn. Ông này có vấn đề hay sao ấy? Lúc đấy thì oai với ai mà dùng súng ngắn. AK của thương binh ngổn ngang dưới giao thông hào sao không lấy. Súng ngắn bắn xa 50m mà trúng tao gọi ông ấy bằng cụ ngay.

Hình như sau đó ông ấy cũng thấy sự bất hợp lý, ông ấy đổi súng sang CKC. Vẫn dở hơi, loại này cắc bụp 5,6 phát lại hì hục lắp đạn. Tao gần hết đạn, may quá lúc ấy phía sau chuyển đạn lên.

Tao bảo sao không lắp sẵn vào hộp tiếp đạn cho anh em, bọn nó bảo thiếu người. Bên ngách hầm gần đấy bị sụt vách, hở tơ hơ. Mấy thằng bên đấy bò sang ngách bên này cho nó có anh có em. Thằng nào thằng ấy mồm toàn đất. Thằng Kiên vị một viên rẹt qua tai, máu chảy ròng ròng. Chẳng chịu băng bó, nó bảo để thế tý là khô miệng ngay, như đỉa cắn là cùng.

Mệnh lệnh được ban xuống. Bằng mọi cách phải bám trận địa, kể cả phải đánh giáp la cà. Còn một người thì còn đánh. Tao nghĩ chả đánh thì chạy đi đâu, việc gì phải lên gân lên cốt, đúng là mấy bố sỹ quan chính trị.

Vị trí của trung đội 4 thất thủ rồi. Một vài thằng Tàu đã nhảy xuống được chiến hào. Bên ấy đang đánh giáp la cà. Tiếng thét của ta, tiếng khóc của tàu nghe to hơn cả tiếng súng. Cứ đến đùm một cái đi luôn thì không sao. Bị lê đâm vào người chết từ từ đau bỏ mẹ.

Thằng Kiên vừa bắn vừa di chuyển sang phía trung đội 4. May quá mình lại đẩy bật chúng ra khỏi chiến hào. Bọn dưới lên chưa kịp vì ta bắn rát quá. Bọn trên bị ta thịt hết. Bên ấy, địa hình địa vật có lợi cho bên nó, anh em bị thương khá nhiều.

Bọn Tàu cũng nhìn thấy được vấn đề, chúng tập hợp lực lượng khoét sâu vào vị trí phòng thủ của trung đội 4. Ông Lượng lập tức triển khai, chia lửa ở các nơi xung quanh về đấy. Chúng nó cũng chẳng làm gì được hơn.

Tiếng súng của trung đội tập hậu rộ lên, gần lắm rồi. Phía bên này thấy bọn Tàu co lại thằng bắn lên trên, thằng bắn xuống dưới. Ông Lượng nhìn thấy vội kéo một trung đội đánh xuống phiá ấy. Ông ấy đoán sau lưng chúng là trung đội đánh hậu. Phải đánh xuống để mở đường cho chúng nó lên đây.

Y như rằng, trên đánh xuống, dưới đánh lên, bọn tàu dạt sang sang một bên. Trung đội đánh hậu vừa đánh vừa giật lùi để lên chốt. Trên này phải ngừng bắn, thi thoảng bắn tỉa phát một thôi. Sợ luống cuống lại nện vào lưng nhà mình. Trung đội đánh hậu thiệt hại mất 1/3 quân số.

Đấy, mấy hôm sau thằng Sơn rùa với ông Trung đội trưởng phải ngồi hầm viết bản kiểm điểm đấy. May mà lập công chuộc tội, diệt được đại đội cối”.

Em lại phải nhắc nó kể tiếp, thằng này hay con cà con kê ngan ngỗng lắm.

“Lại một lần nữa, Bọn tàu nhảy được vào chiến hào. Lần này ở đoạn mé đồi dưới kia kìa. Chúng nó đông lắm, đến vài chục thằng. Chui được vào chiến hào rồi chúng nó đánh loang ra 2 bên. Bên ấy yêu cầu trên này đánh thẳng xuống, trùm đạn lên cả ta lẫn đich, thế thì mới giữ được. Nếu không, chúng cố thủ được chỗ ấy, Lấy chỗ đó làm cơ sở để đánh tiếp, ta còn mất nữa.

May quá, nửa tiếng sau ta lấy lại đuợc. Chiến sỹ ta hầu như chẳng còn ai. Một vài thằng còn sống vì bị thương rồi giả chết nên thoát. Thằng Tiến, hình như ở gần nhà mày, chết đè lên một thằng Tàu. Gỡ mãi mới ra. Tay trái ôm cổ, tay kia vẫn nắm chặt cán dao, lưỡi dao cắm sâu vào bụng thằng Khựa. Thương lắm.

Đánh đến chiều muộn thì chúng nó bắt đầu rút. Tao hoa mắt, tai điếc đặc. Bọn nó rút cũng không thu được hết xác. Hôm sau anh em phải đi dọn, nôn mãi về nhà không hết. Mày thấy không, đến hôm nay mày về mùi vẫn nồng nặc đấy thôi. Đến chiều thì lính ở mấy điểm cao khác cũng đên chi viện. Lúc đấy trận gần tàn rồi. Đến để hôi chiến lợi phẩm à?”.

Em bảo, sao lại mất quan điểm thế. Các điểm cao khác cũng phải giữ chứ, đi hết thì để đấy cho không chúng nó à? Thằng Chính cười hềnh hệch. Nó bảo nó biết chứ, nhưng nó cứ thích nói thế cho sướng mồm đấy.

Trận đấy ta giữ được điểm cao. Gọi là thắng cũng đươc. Nhưng nói thật, không hoành tráng như phim đâu. Trước đây, em là thằng thích xem phim chiến đấu của Liên Xô. Đánh rồi mới thấy chiến trường không giống phim. Khốc liệt hơn nhiều. Tàn bạo hơn nhiều.

* * *

Thi thoảng em vẫn gặp lại anh em, nhất là dịp 22 tháng 12. Mấy anh em ngồi lại với nhau, uống dăm ba chén rượu, nhắc lại chuyện cũ. Năm nào cũng thế, chuyện chỉ có vậy thôi nhưng đều cảm thấy như vừa hôm qua. Cứ gặp là ôm nhau, như ở dưới chân dốc sau năm ngày đi lạc.

Thằng Sơn rùa giờ lang thang ở Hà Nội kiếm sống. Nó ngồi khâu giầy ở ngõ Hào Nam. Nếu ai vô tình đi qua, sẽ thấy một người đàn ông có đôi mắt cười, cái lưng gù, cặm cụi đuờng kim mũi chỉ. Nó lấy vợ cũng giống như đi lạc đường. Tính nó thế. Lấy nhau một năm thì vợ bỏ.

Thằng Tạo giờ làm thợ khoan móng. Nó lang thang đi khắp các công trình. Thi thoảng về Hà Nội lại ghé thăm em.

Thằng Vinh về Ba vì nuôi bò. Giờ nó không ăn khoẻ nữa rồi. Chắc tại bú sữa bò nhiều quá đây mà.

Thằng Minh bán đồ gỗ ở Đê La Thành. Em cũng chẳng nhơ số nhà bao nhiêu. Hôm vừa rồi qua nhà nó. Nó cho một cái kệ ti vi. Thằng này vẫn chưa lấy vợ. Hình như sau trận ấy cậu bị thọt cà, mất khả năng chiến đấu…

CAO SƠN (TTVNOL)


Cuộc Di Tản Khỏi Pleiku !

Người viết bài này thành thật xin lỗi phóng viên Nguyễn Tú vì đã dùng bài của ông mà không được phép trước. Tuy nhiên đây là một bài phóng sự đã gây bàng hoàng và xúc động cho hàng triệu người Việt , vì thế tác giả xin ông thông cảm và lượng thứ cho. Xin chân thành cảm ơn ông.)

Vân Hải Nguyễn Xuân Hùng 

0

Mặc dầu được coi như xa với tiền tuyến, nhưng với những tin tức chiến sự hoàn toàn thất lợi cho phía Việt Nam Cộng Hòa như rút bỏ Huế, Đà Nẵng trong hoảng loạn, cuộc triệt thoái khỏi Pleiku của Quân Đoàn II, phòng tuyến Khánh Dương bị bung, Nha Trang bỏ ngỏ, phòng tuyến Phan Rang đã vỡ, tuyến thép Xuân Lộc Long Khánh đã gẫy, thủ đô Saigòn như một cái dầu mà nửa phần thân thể phía trên đã bị chặt rời từng mảnh đã gần như đi vào hoảng loạn và chiến tranh kịch liệt đã áp sát thủ đô.

Vùng 4 Chiến Thuật với Quân Đoàn 4 nơi tập trung các Sư Đoàn 7, 9, và 21 còn nguyên vẹn nhưng cứ với đà này thì mọi người đều linh cảm thấy cái viễn ảnh của một ngày đen tối đã cận kề, ngày mà nước Việt Nam Cộng Hòa sắp sửa mất vào tay  quân Bắc Việ Namt.

Lo lắng trong tôi, trong lòng mọi người quân nhân trong đơn vị, từ cấp chỉ huy lớn nhất cho đến cấp thấp nhất, và bầu không khí u buồn thấp thoáng trùm phủ lên những bữa cơm gia đình. Giờ ăn sáng ở câu lạc bộ của Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Chiến Tranh Chính Trị hình như cứ dài thêm. Trong một vài buổi học tập chính trị cuối cùng tổ chức vào cuối tuần đặc biệt chung cho quân nhân cơ hữu và khóa sinh, các sĩ quan Trung Tâm cũng đã bàn đến việc có thể miền Nam sẽ lâm vào tình trạng vô cùng nguy ngập với cái đà tiến công ồ ạt của quân đội Bắc Việt Nam như hiện nay, tuy nhiên kết luận thì cũng vẫn cố bấu víu vào một chút hy vọng rằng rồi ra cũng sẽ có những giải pháp hay nhằm chấm dứt cuộc chiến. Dĩ chí trong những giây phút nói chuyện bù khú có anh lại nói rằng cộng sản bây giờ cũng tiến bộ chứ không còn sắt máu như hồi xưa, và bây giờ cục diện thế giới không phải là thế đối đầu mà là thế tương nhượng, Mỹ nhượng Nga, Nga nhượng Mỹ, và dĩ nhiên các quốc gia nhỏ, những vệ tinh xoay quanh hai cái trục xanh (Mỹ) và trục hồng (Liên Sô) cũng phải thuận theo đàn anh. Tuy nhiên theo tôi nghĩ thì làm gì có cái chuyện ấy, vì người Mỹ đã bỏ rơi miền Nam, và một khẩu pháo binh của Nam quân chỉ còn có thể bắn một ngày hai quả pháo thì làm sao chống lại được bọn chúng khi Nga cộng và Tầu cộng ồ ạt viện trợ. Bây giờ mới là thời cơ chín mùi cho  Bắc Việt Nam tiến chiếm miền Nam. Một dịp may hiếm có, ngàn năm một thuở thì làm gì bọn cộng sản Bắc Việt lại chịu tương nhượng với một đối thủ bây giờ đã lạng quạng, sắp sửa té ngã xuống sàn đấu.
Các khóa sinh Hạ Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị gốc Miền Trung lúc ấy đang tham dự khóa Chiến Tranh Chính Trị cứ túm tụm nhau lại nói chuyện với nhau trong trạng thái lo âu, bởi vì họ chẳng biết gia đình, vợ con họ ra sao. Một anh Đại Diện khóa gốc miền Nam nói rằng hiện bây giờ Việt Cộng có loại súng AK báng xếp rất tối tân. Không hiểu anh ta lấy tin tức ở đâu ra mà nói như vậy.
Trước khóa HSQ/CTCT này là khóa 28 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Đây là những tân sĩ quan tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt được đưa thẳng về Trung Tâm Huấn Luyện này để theo học một khóa ba tháng về Chiến Tranh Chính Trị trước khi được bổ nhiệm đi đơn vị mới.
Đó cũng là khóa sĩ quan cuối cùng của Trung Tâm trong những năm tháng dài đào tạo các khóa căn bản về Chiến Tranh Chính Trị cho những sĩ quan đại đội phó. Và tôi cũng là một sĩ quan Liên Đoàn Trưởng cuối cùng của Trung Tâm, nhận chức chưa đầy sáu tháng từ đại úy Nguyễn Ngọc Dung[i] Tôi còn nhớ người sĩ quan đại diện cho khóa là một tân thiếu úy tên là Quốc, người gốc Huế, cao lớn trắng trẻo. Khóa này ra trường đúng vào lúc mà chế độ Việt Nam Cộng Hòa đang “thập phần tử, nhất phần sinh”[ii] Họ là những thanh niên trẻ, có học và đầy nhiệt huyết nhưng tiếc thay vận nước đã đến hồi suy mạt và cho dù họ là những thanh niên văn võ toàn tài nhưng chẳng thể nào một tay chống trời chung sức vực dậy được một con bệnh đang trầm kha .
Và sau này khi ra khỏi trại cải tạo tôi gặp lại được một anh nguyên là thiếu úy của khóa ấy. Theo lời anh ta thì toàn khóa 28 được cấp tốc bổ sung cho các đơn vị tác chiến nhưng đa số đã anh dũng hy sinh vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến.
Trung tuần tháng 3, 1975, lệnh của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị cho Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Chiến Tranh Chính Trị là phải đề cử một số khóa sinh dưới sự hướng dẫn của Sĩ Quan Trung Tâm tháp tùng phái đoàn cứu trợ ra miền Trung bằng chuyến phi cơ C 130 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất. Với tư cách là Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Khóa Sinh tôi bảo người Đại diện khóa cắt cử một số khóa sinh để đưa danh sách sang Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị làm Sự Vụ Lệnh đi.
Cựu đại úy Lê Thành Hưng, nguyên sĩ quan thuộc Khối Huấn Luyện Trung Tâm Cán Bộ Chiến Tranh Chính Trị kể lại với tôi như sau:
“Tôi đi với Thiếu Tá Bá thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, cùng với nhóm khóa sinh bên Liên Đoàn của ông. Thấy vậy Trung Tá Hương[iii], Chỉ Huy Phó Trung Tâm của mình nói với tôi rằng để cho ông ta đi thay tôi. Tuy nhiên Đại Tá Phúc[iv] không đồng ý để ổng thay tôi với lý do là sự vụ lệnh đã ký rồi không thể sửa đổi được.”
Hưng kể tiếp:
“Theo dự trù thì các thực phẩm cứu trợ cấp tốc như bánh mì và mì gói sẽ được phát cho dân chaỵ loạn nhưng lúc ấy tình hình ở Nha Trang cũng rối loạn cho nên thay vì vậy phi cơ đáp xuống phi trường Cam Ranh chứ không phải Nha Trang. Thiếu Tá Bá và tôi cùng nhóm Hạ Sĩ Quan khóa sinh của ông được lệnh ở lại sân bay Cam Ranh không được đi đâu cả. Và thay vì phát thẳng cho dân thì chúng tôi lại giao cho tiểu khu Khánh Hòa tùy nghi xử dụng, và rồi lại quay về Saigòn.”
Buổi chiều họ trở về, người nào người nấy cũng không dấu được nét xúc động, bởi vì họ đã phần nào nhìn thấy và chứng kiến thấy cái cảnh không mấy vui ngay cả khi chỉ đáp xuống phi trường Cam Ranh.. Họ nói với tôi là tình hình ở ngoài quân khu 2 rất là xấu. Hỏi là xấu thế nào thì họ chỉ biết lắc đầu, bởi vì chính họ cũng chưa thực sự là những người chứng kiến được cái cảnh các đơn vị tan rã sau cuộc rút quân khỏi thị trấn Pleiku theo đường liên tỉnh lộ 7 chạy ngang qua thị trấn Cheo Reo, (Hậu Bổn) tỉnh lỵ Phú Bổn.
Hỏi gặng lại là xấu thế nào thì mấy khóa sinh này chỉ nói rằng: phi cơ được lệnh bay trở lại Saigòn, thành thử không biết nhiều, và không tiếp xúc được với dân và dĩ nhiên là không thể đưa ra cái kết luận dứt khoát nào trước sự “cuốn chiếu” ào ạt về Nam của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Báo chí, đài phát thanh mỗi lúc một đưa ra những tin thất lợi dồn dập về lực lượng Việt Nam Cộng Hòa. Tôi nhớ lại một trong những bài báo do phóng viên Nguyễn Tú của báo Chính Luận viết về cuộc triệt thoái của Quân Đoàn 2 khỏi thị trấn Pleiku vào ngày 16 tháng 3 năm 1975 đã gây ra cho tôi niềm xót xa vô hạn. Bài báo nói rằng ký giả Nguyễn Tú từ Pleiku tường thuật về cuộc rút quân này qua điện thoại viễn liên với tòa soạn báo Chính Luận ở Saigòn đã nhiều lần bật khóc nức nở.
Tôi cũng phải rơi lệ khi đọc xong bài báo này, bởi vì bản thân mình cũng là người có rất nhiều kỷ niệm gắn bó với cái thành phố nhỏ bé thân thương ấy từ ngày còn mang cấp bậc chuẩn úy. Vì bài báo mang tính chất của một thảm kịch lịch sử cho nên tôi đã cất kỹ số báo này coi như là một kỷ niệm cuối cùng về một thành phố thân thương trong những ngày tháng đầu đời quân ngũ của mình, một thành phố nhỏ bé, khiêm tốn, núp dưới những rặng thông già lãng đãng mù sương.
Xin các bạn hãy đọc bài viết của ký giả Nguyễn Tú sau đây:
(Saigòn 17 tháng 3) Chiều tối chủ nhật ngày 16 tháng 3 năm 1975, bạn Nguyễn Tú, đặc phái viên Chính Luận tại chiến trường Quân Khu 2 đã từ Pleiku gọi điện thoại cho biết về tình hình Pleiku sau khi Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 di tản về Nha Trang. Bạn Nguyễn Tú cho biết là trong hai ngày qua, đồng bào trong toàn tỉnh đã hoang mang đến cực độ khi nghe tin các đài phát thanh ngoại quốc loan báo Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 đã di tản về Nha Trang. Giới hữu trách không có lời giải thích nào để trấn an đồng bào mỗi phút lại càng mất thêm tinh thần, mạnh ai lo liệu phương tiện di tản ra khỏi vùng giao tranh và trán mặt quân cộng sản.
Chiều qua, các phố xá đã đóng cửa không buôn bán cầm chừng như trước đây, và đồng bào đã đổ xô hết ra đường, nhốn nháo ngược xuôi tìm lối chạy. Người ta thuê bao đủ mọi loại xe, chất hết đồ đạc quần áo để chuẩn bị chạy. Những người ít tiền cũng vét túi, chung nhau thuê xe, và các loại xe, từ xe lam, xe vận tải, xe lô, xe nhà, xe Honda, cho đến cả xe ủi đất, xe cứu hỏa, xe cần trục, máy cày v.v.v.. đều chất đầy ắp đồ đạc, đầu nối đuôi dài trên các đường phố chính như Hoàng Diệu, Võ Tánh, Phan Bội Châu, Quang Trung, Hai Bà Trưng. Tất cả đều rộn ràng di chuyển, nhưng không biết di chuyển theo lối nào, vì con đường duy nhất có thể chạy về Quy Nhơn là quốc lộ 19 thì đã bị địch cắt. Áp lực của cộng quân vẫn nặng nề trên đường băng rừng băng núi này, cái chết có thể đe dọa tập thể tị nạn bất cứ nơi nào và bất cứ giờ phút nào.
Những chuyến bay của Hàng Không Việt Nam đã ngưng từ mấy hôm nay nên phi trường chỉ còn là nơi hoạt động rộn rịp của các loại máy bay quân sự. Tin tức một số gia đình thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn và các ngoại kiều được di tản ra khỏi Pleiku làm cho mọi người càng thêm hốt hoảng. Họ chỉ còn trông ngóng vào con đường sống duy nhất là quốc lộ 19. Họ cầu nguyện và mong ngóng cho quốc lộ này được giải tỏa mau lẹ để để lánh xa nơi quân cộng sản kéo tới. Cảnh hốt hoảng càng thêm mãnh liệt hơn khi một số các đồng bào tị nạn ở Kontum, Thanh An, Phú Nhơn v..v kéo về Pleiku chờ mở đường chạy giặc. Ám ảnh… đai lộ kinh hoàng và chợ Đông Ba rực cháy ngày nào ở miền Trung là một ám ảnh khó xóa nhòa trong tâm tư mọi người. Dắt díu nhau ngược xuôi ngoài đường phố, và đồng bào ngơ ngác thầm hỏi nhau biết chạy đi đâu bây giờ? Từ cả tuần báo chí không lên Pleiku nữa, do đó có muốn đọc được những lời tuyên bố rất bình tĩnh của các giới chức Saigòn cũng không được. Qua điện thoại bạn Nguyễn Tú báo tin cho tòa soạn biết là bạn đang tìm cách thoát khỏi Pleiku cùng đồng bào và sau đây là bản tin cuối cùng của bạn từ Pleiku gửi về cho tòa soạn và bạn đọc Chính Luận. Lại thêm một hoàng hôn.
Bạn Nguyễn Tú cho biết qua điện thoại nguyên văn như sau:
Lại thêm một hoàng hôn, có thể hơn thế nữa, bắt đầu trưa hôm nay là 12 giờ, dân chúng Thanh An, Phú Nhơn và các vùng lân cận Pleiku đều đổ xô về thị xã Pleiku. Họ đang sống những giờ phút lo âu kinh hoàng ngoài đường phố. Trên khắp cá ngả đường đều chật các xe đủ loại, xe quân sự, xe dân sự, xe chở hàng, xe ủi đất, xe chữa lửa, xe máy kéo có rờ moọc bên trên chất đầy những “gia bảo” cuối cùng của dân chúng. Tất cả các gia đình, già trẻ lớn bé, dân sự cũng như quân sự ngồi sẵn trên xe để chờ di tản mà họ không biết là đi đường nào. Các lực lượng diện địa của ta và các lực lượng trong ngành an ninh, quân cảnh, cảnh sát đều không còn có thể kiểm soát được nữa, vì tất cả các nhân viên đó đều lo lắng cho chính gia đình của họ.
Ngoài đường phố đầy rẫy những người đi bộ. Những quân nhân và thường dân tay xách nách mang và bồng bế các trẻ thơ, xách những giỏ đồ đạc lang thang khắp phố, không biết đi đâu nữa. Pleiku đang sống trong một không khí kinh hoàng chưa từng thấy, hơn cả cố đô Huế năm 1972.
Kontum- Pleiku coi như bị bỏ ngỏ vì các nhân viên có trọng trách an ninh đã chỉ lo riêng cho gia đình họ, và không còn ai còn có tinh thần đảm nhận trách vụ của mình… Sự kiểm soát đã lọt ra ngoài tay của các giới lãnh đạo chính quyền tỉnh. Riêng các lực lượng chính quy còn có kỷ luật và tinh thần chiến đấu. Nhưng tình trạng hỗn loạn và xáo trộn của dân chúng Pleiku ra đầy ngoài đường đã tạo nên một cảnh tượng thật không thể tưởng tượng nổi. Trên khuôn mặt mỗi người đều lộ vẻ lo âu không tả hết. Chiến tranh thực sự chưa tới Pleiku. Chưa một đạn pháo kích nào của địch bắn vào thị xã Pleiku. Hoàng hôn của Pleiku có thể như đã bắt đầu. Đồng thời có thể tiếp luôn những cảnh hoàng hôn khác. Tình trạng Pleiku bi thảm quá!
(Saigòn 18-3-1975) Sáng nay bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú, tại một địa điểm dừng chân trên đường rút lui của của quân dân hai tỉnh Kontum-Pleiku báo tin qua điện thoại quang cảnh di tản bi thảm của đồng bào.
Dưới đây là nguyên văn ghi lại lời của bạn Nguyễn Tú đọc qua điện thoại.
Tất cả lên đường. Tối nay, Pleiku đã thực sự hỗn loạn. Tất cả dân chúng Pleiku thêm vào đó dân chúng ven tỉnh, dân chúng thuộc vài quận gần thị xã Pleiku, và cả dân chúng Kontum đã đổ xô nhau chạy về Pleiku đều xuống đường và tổ chức một đêm không ngủ. Không phải để biểu tình chống ai, mà để vội vàng hốt hoảng tiếp tục chất các hàng hóa, bàn ghế tủ giường, cùng những vật dụng riêng lên đủ thứ xe: xe lam, xe ba bánh, xe vận tải hạng nặng, xe Jeep, xe hốt rác, xe GMC nhà binh, xe Honda. Thậm chí xe be, xe cần trục, xe máy kéo xe trắc tơ. Cả đến xe chữa lửa cũng được dùng để chất đồ và chở người. Xe nào chất xong đồ là người leo lên ngồi sẵn, xe nào đôi nhíp cũng gần như thăng bằng, vì chất quá nặng.
Từ trưa các lực lượng an ninh trong thị xã Pleiku như Quân Cảnh, Cảnh Sát bỏ tất cả nhiệm sở không còn thấy bóng một ai, mặc dầu hôm qua thứ vbẩy 15 tháng 3 còn canh phòng rất gay gắt các ngả ra vào tỉnh và thị xã pleiku. Mọi đường phố không còn một nhân viên công lực nào giữ trật tự nữa.. Tất cả mọi người đều về nhà lo di tản cho gia đình. Liên lạc vô tuyến của hệ thống quân đội không còn được điều hòa và hữu jiệu như trước nữa tuy vẫn chưa hẳn gián đoạn. Các nhân viên truyền tin cũng thay nhau về nhà để lo việc di tản gia đình. Sự kiểm soát an ninh trật tự coi như đã tuột khỏi tầm tay của chính quyền địa phương Pleiku. Tại tư dinh Đại Tá Tỉnh Trưởng[v] Pleiku, các Nghị Viên, các Trưởng Ty, Sở, hấp tấp ra vào họp liên miên. Chưa bao giờ các đại diện dân cử kể cả đối lập và chính quyền đã sát cánh với nhau như thế. Chưa bao giờ lập pháp, hành pháp, tư pháp đều đồng một lòng một dạ như thế. Đồng một lòng một dạ trong một câu hỏi duy nhất: Bao giờ thì di tản? Mấy giờ thì di tản? Trên thực tế thì Pleiku đã sống giờ thứ 25 từ hôm qua, thứ bẩy 15 tháng 3. Hôm nay chủ nhật 16 tháng 3 lúc 19 giờ đã có điện trở lại trong toàn thị xã.
Đèn ngoài đường và trong các tư gia cũng được thắp sáng. Có lẽ là một hội hoa đăng cuối cùng. Khắp các đường phố dân chúng đi lại hết sức nhộn nhịp tất tưởi. Ngay từ xế trưa hôm nay 16 tháng 3, các xe nào đã chất xong đồ vật đều chuyển bánh trên Quốc Lộ 14 đi về Phú Bổn thành một đoàn dài. Nhưng phải kể từ 20 giờ ngày hôm nay Chủ Nhật 16 tháng 3 năm 1975, sự di chuyển toàn diện của dân chúng mới thực sự bắt đầu, đoàn xe ước chừng đến hàng ngàn chiếc, bật đèn pha nối đuôi nhau trên hàng chục cây số trông như một cuộc “trở về nhà sau cuộc nghỉ ngơi cuối tuần.” Nhưng đây đâu phải là “đoàn xe thanh bình”. Sáng kiến vĩ đại. Cuộc di tản đại qui mô của hai tỉnh gom lại là Kontum và Pleiku do sáng kiến tư nhân có thể là “vĩ đại” ở chốn Tây Nguyên hẻo lánh này. “Mục tiêu đầu tiên là Phú Bổn. Sau đó sẽ tính.” Đó là lời một đồng bào di tản nói với Chính Luận. Nhưng ra khỏi thị xã được vài cây số thì đoàn xe bị kẹt vì những chiếc xe nhỏ hơn như xe lam, xe ô tô nhỏ, xe Honda muốn vượt trước.
Dân chúng nghèo cũng ra đi bằng phương tiện thiên nhiên trời đã phú cho họ là đôi chân của chính họ. Họ đây là gồm cả già, trẻ, lớn, bé, con nít còn bồng trên tay, đàn bà đang mang bầu, tay xách, nách mang, một vài manh chiếu, một vài bọc quần áo, buồn tủi, lo âu, gia đình nọ nối tiếp gia đình kia đi hàng một sát bên lề đường để tránh đoàn xe. Đèn pha của đoàn xe lần lượt chiếu các bóng lưng còng xuống của người lớn, những bóng nhỏ hơn của các trẻ em tay níu vạt áo hoặc ống quần của người bố hay người mẹ.. Họ lặng lẽ thất thểu bước nọ trước bước kia trong đêm tối của tâm hồn.
Cuộc di tản này chắc chắn sẽ kéo dài tới ngày hôm sau. Thế là Kontum và Pleiku đã bỏ ngỏ, chính thức và không chính thức. Không chính thức mà chính thức vào hồi 20 giờ đêm ngày Chủ Nhật 16 tháng 3 năm 1975.
Pleiku không còn gì để cho tôi săn thêm tin thêm nữa. Ba lô vẫn cõng trên vai, hồi 22 giờ 30 tôi theo đoàn người di tản ra khỏi thị xã Pleiku. Bầu trời hôm nay đẹp quá, hàng ngàn vì sao lấp lánh như thiên thần nháy mắt với trần gian hay đó là những ám hiệu dục dã: “Lẹ lên!” Nếu tôi có một người bạn đường đi bên tôi, tôi sẽ bảo: “Bạn ơi, trên trời có bao nhiêu vì sao thì lòng tôi đau xót còn hơn thế nữa.”
Đốt phá, bỏ rơi: Các kho súng, kho đạn tại tỉnh Pleiku đã được lệnh thiêu hủy, tiếng nổ lớn nối liền tiếng nổ nhỏ. Từng cột khói đen bốc lên trong lửa đỏ từ các bồn nhiên liệu cũng được lệnh phá hủy. Tất cả đều bùng cháy. Nhiều khu phố trong thị xã Pleiku đã bị toán người đập phá nhà cửa của các chủ nhân đã di tản, và đã bị phóng hỏa ít nhất tôi đếm cũng được 14 đám cháy trong những khu phố khác nhau. Nhiều tiếng súng cũng đã nổ trong thị xã. Có tin Đại Tá Tỉnh Trưởng Pleiku đã hạ lệnh cho đốt kho giấy bạc trong Ngân Khố, ước lượng khoảng 300 triệu và trong khi tưới xăng để đốt, ông Trưởng Ty Ngân Khố đã bị phỏng. Không còn một bác sĩ tư nào trong thành phố.. Quân cũng như Dân Y Viện không còn hoạt động. Một số bệnh nhân tại Dân Y Viện cũng như một số thương binh tại Quân Y Viện Pleiku đã bị bỏ rơi lại vì không còn ai lo cho họ nữa. Chính họ trong tình trạng bệnh hoạn chẳng tự mình làm được, ngoài sự chết đói dần mòn trên giường bệnh.
Một nguồn tin đáng tin cậy cho hay là Chuẩn Tướng Tất[vi], Tư Lệnh Mặt Trận Kontum-Pleiku đang chỉ huy cuộc triệt thoái lực lượng chính quy đi đi về hướng Nam trên quốc lộ 14. Trên đường nóng bỏng (Pleiku 17-3). Sáng nay, cuộc di tản đang tiếp diễn dưới ánh mặt trời huy hoàng của một ngày đầu tuần. Hàng ngàn chiếc xe dân sự và quân sự vẫn nối tiếp nhau trên quốc lộ 19 đi về hướng Phú Bổn. Nhiều xe vì chở quá nặng không chạy nổi đã bỏ lại trên đường. Các quân nhân được lệnh triệt thoái dưới quyền tư lệnh của tướng Tất đã thi hành một cách rất trật tự và kỷ luật. Các đơn vị Biệt Động Quân đã được lệnh đi hai bên quốc lộ 14 ở những chỗ xung yếu để bảo vệ đoàn xe di tản dân sự và quân sự. Các đoàn người đi bộ thật là thảm thương. Đàn bà, con trẻ đi bên lộ dưới ánh nắng nóng bỏng không giọt nước để uống.
Dọc quốc lộ từ Pleiku đến Hậu Bổn là tỉnh lỵ của Phú Bổn, đoàn xe cứ nối dài. Đoàn người đi bộ bị bỏ lại sau, nhưng họ cũng vẫn cố gắng lết đi trên đường nóng bỏng dưới ánh nắng của Pleiku. Chưa biết tối nay họ có thể tới Phú Bổn bằng đôi chân của chính họ hay không. Sẽ có nhiều người bị chết đói, chết khát dọc đường. Đọc Quốc Lộ 14 đi về Phú Bổn, các làng, các ấp, các Buôn đều trống trơn không còn một ai. Cảnh hoang tàn dọc quốc lộ 14 tôi không làm sao mà còn trí óc để nghĩ ra những danh từ tường trình với độc giả. Bi thảm quá đồng bào ơi!
Hôm nay thay vì lá thư hàng tuần sự tường trình của tôi có thể ngắn ngủi và không mạch lạc. Mong quý vị độc giả phương xa ở tại cái thủ đô đầy ánh sáng hiểu cho. Cho tới nay vẫn không thể hiểu được lệnh bỏ ngỏ Kontum Pleiku là ở đâu mà ra và và tại sao lại có sự ra đi hấp tấp trong dân chúng trong khi các nhà cầm quyền quân sự đã trù liệu kế hoạch từ trước. Không có giải thích nào cho dân chúng. Không có tổ chức nào để di tản dân chúng trong trật tự và an ninh, không có một sự trợ giúp nào cho các dân nghèo không có phương tiện đi xe. Từ năm 1954 cho tới nay chính tôi đã chứng kiến bao cuộc di tản. Cuộc di tản Pleiku- Kontum để lại cho tôi một nỗi chán chường. Sống với những hy vọng mong manh từ năm 1954 đến năm 1975 tới nay tôi cảm thấy không còn đủ sức, đủ ý chí để bấu víu lấy cái chút hy vọng mong manh ấy nữa. Ngoảnh về Pleiku khói vẫn ngùn ngụt bốc lên vì những đám cháy đêm qua. Dọc lộ, xe tăng và đại pháo dạt ra hai bên đường để bảo vệ những chỗ xung yếu để cho đoàn xe di tản dân sự và quân sự có thể đi chót lọt tới Hậu Bổn[vii] tức tỉnh lỵ Phú Bổn. Nhưng trên đoạn quốc lộ 14 từ Pleiku đến Hậu Bổn vẫn xẩy ra nhiều đoạn đương kẹt xe.. có thể hàng 5 đến 10 cây số chưa biết rằng đoàn xe có thể tới Hậu Bổn được không. Và từ Hậu Bổn sẽ đi đâu chưa ai rõ. Riêng cho tôi không còn có trí óc nào để nghĩ đến tương lai dù rằng tương lai chỉ là ở một giây, một phút sau đó. Điện đàm đứt đoạn.
(Nguyễn Tú, Chính Luận)
“Phố núi cao, phố núi đầy sương, phố núi không xa, trời thấy thật gần. Anh khách lạ đi lên đi xuống, may mà có em, đời còn dễ thương. Em Pleiku má đỏ môi hồng, ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông. Nên tóc em ướt, nên mắt em ướt, môi em mềm như mây chiều trôi. Phố núi cao, phố núi đầy sương, phố núi không xa, nên thấy tình thân. Đi năm phút, trở về chốn cũ, một buổi chiều nao, lòng thấy bâng khuâng. Xin cảm ơn thành phố có em. Xin cảm ơn, một mái tóc mềm,. Mai xa lắc, trên đồn biên giới, còn một chút gì để nhớ để thương.”
Bài hát về cái thành phố sương mù này đã gây cho tôi những nỗi xúc động đến bàng hoàng. Âm hưởng của bài hát cứ lãng đãng, cứ như dãn ra trong cái buổi chiều đông năm nào chầm chậm về với những làn gió bấc thổi luồn qua những hàng thông già muôn thuở.
Thế là thành phố thân yêu đã mất vào tay giặc. Đọc tờ báo xong chính tôi cũng không thể nào ngăn được giòng lệ khóc cho một thành phố miền cao, nơi đó đã ấp ủ trong lòng tôi những tình cảm thân thương trong suốt một thời gian dài từ khi mình còn là một chuẩn úy mới ra trường được bổ nhiệm về phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 2 Chiến Tranh Tâm Lý đồn trú trong thị xã Pleiku.
****
Đại Úy, có mấy bà nào tìm đại úy kìa.
Ai vậy?
Tôi đâu có biết. Lạ lắm
Anh mời hai bà ấy vào trong văn phòng dùm tôi
—–
Đại Úy. . à dạ thưa anh
Ồ chị K’Lan. À mà có cả chị Nghiêm[viii]nữa. Hai chị đến tìm tôi có chuyện gì không?
Người đàn bà mà tôi gọi là chị K’Lan là vợ của một người sĩ quan Thượng gốc Koho, một sắc tộc cư ngụ tại vùng phía Nam tỉnh Tuyên Đức. Anh K’Lan tốt nghiệp khóa khóa 21 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, và khi về trình diện Tiểu Đoàn 20 Tâm Lý Chiến thì được bổ nhiệm về Đai Đội của tôi để làm công tác thượng vận. Chị K’Lan là một người phụ nữ miền Bắc nhưng sinh ra và lớn lên ở Saigòn. Việc làm sao mà một người thiếu nữ Việt sống ở giữa lòng thành phố Saigòn mà lại kết hôn với một sĩ quan Thượng cũng là cả một chuyện khá ngộ nghĩnh và ly kỳ. Theo lới anh K’Lan kể thì hai người chơi tìm bạn bốn phương lúc anh ta bắt đầu vào học khóa 21 Thủ Đức. Anh lấy tên là Hoàng Minh Lan, và hai người bắt đầu quen nhau qua những cánh thư. Anh ta nói với chị Dung (Nguyễn Thị Dung) rằng anh “lai” nhưng không nói là lai gì. Tình yêu một khi đã đến thì cái gì cũng đẹp cả. Anh K’Lan[ix] nhờ bạn bè mai mối và đứng ra tổ chức cưới tại Saigòn. Rồi anh được bổ nhiệm về miền Cao Nguyên làm Sĩ Quan Chiến Tranh Tâm Lý của Tiểu Đoàn 20 Tâm Lý Chiến. Thấy tôi là cấp chỉ huy nhưng vui vẻ và mến anh, K’Lan thường tâm sự với tôi rằng anh muốn đổi tên K’Lan thành ra Hoàng Minh Lan như anh đã từng xử dụng trong những bức thư trao đổi với người “bạn gái” của anh ngày trước (nay là “bạn đời” của anh) khi còn là sinh viên sĩ quan. Một hôm nhân có Đại Úy Phạm Văn Tải[x], Đại Đội Trưởng Đại Đội 204 (thay thế cho Đại Úy Bùi Văn Hường[xi] bị cộng sản sát hại trong đêm 30 Tết Mậu Thân tại chính doanh trại của Đại Đội ở thị xã Kontum) đang ngồi chơi tôi thì K’Lan bước vào chào chúng tôi. Tôi đem chuyện của anh ta muốn đổi tên là Hoàng Minh Lan thì Tải nói ngay: “Khôông..đừng đổi thế. Tôi đề nghị anh K’LAN thế này nhé: Ta đem chữ K ghép AO thành KAO. Và chữ LAN đọc theo Tây là LĂNG cho nên ta ta thêm G và viết thành LĂNG. KAO LĂNG. Ta có hai chữ KAO LĂNG. Nhưng tiếng Việt không ai viết như thế mà mẫu tự K phải đổi thành mẫu tự C. Cuối cùng mình có chữ CAO. Phải, mình có hai chữ CAO LĂNG. Cuối cùng chỉ cần thêm một cái họ Việt Nam nữa là xong rồi. Tôi thấy anh nên lấy họ Nguyễn, và như vậy có cái tên mới là NGUYỄN CAO LĂNG. Hai chữ CAO LĂNG đọc nhanh có cái âm na ná chữ K’LAN. Vả lại lấy là NGUYỄN CAO LĂNG là oai lắm đấy. Ông Nguyễn Cao Kỳ đang làm Phó Tổng Thống mà anh lấy là Nguyễn Cao Lăng biết đâu có kẻ nói anh là bà con với ông Kỳ chưa biết chừng. Nếu có như vậy thì cứ nhận đại đi cho nó oai. K’LAN cười. Và việc anh ta tính làm đơn xin Bộ Quốc Phòng đổi thành HOÀNG MINH LAN theo như ý anh hay NGUYỄN CAO LĂNG theo ý Đại Úy Tải đề nghị cũng chẳng thấy nhắc lại dù chỉ một lần. Rồi chuyện ấy cũng chìm trong quên lãng cho đến một ngày…
Tôi hỏi chị K’LAN:
Chị cần tôi giúp gì trong lúc này?
Chị buồn buồn nói:
Em muốn “đại úy” gọi dùm lên Pleiku xem có gặp được nhà em không. Sốt ruột quá đi. Chị cứ bồn chồn lo lắng.
Tôi an ủi chị:
Chị cứ bình tĩnh đi. Tôi sẽ cố gắng liên lạc với trên ấy xem sao. Nghe nói tình hình chộn nhộn lắm.
Ngồi suy nghĩ một chút tôi nói:
Được, tôi sẽ cố gắng. Tôi sẽ dùng cái điện thoại viễn liên của Chỉ Huy Trưởng[xii] Trung Tâm Huấn Luyện này gọi lên Quân Đoàn và hy vọng có thể biết được tin. Chị ngồi đây đợi chờ tin của tôi.
Tôi lên Văn Phòng Chỉ Huy Trưởng, nói với đại úy Nguyễn Thanh Hóa[xiii] sĩ quan an ninh mà cũng là chánh văn phòng cho tôi gọi nhờ đường giây ưu tiên của Chỉ Huy Trưởng
Hóa vui vẻ bảo tôi:
Gọi đi bồ!
Tôi bốc điện thoại lên chuẩn bị quay số O gọi Tổng Đài Thống Nhất thì Hóa cười nói:
Nghe nói trên Vùng 2 lộn xộn lắm Hung ơi. Chưa chắc đã gọi được.
Tôi cười:
Còn nước còn tát
Tôi quay số 0 và yêu cầu tổng đài Thống Nhất ở Saigòn cho tôi liên lạc với tổng đài Oanh Liệt, tức tổng đài của Tiểu Đoàn Truyền Tin của Quân Đoàn 2 trên Pleiku. Tiếng dial tone kêu u u dòn dã, nhưng bên kia đầu dây không có ai trả lời. Một lúc sau mới nghe thấy tiếng nói gọn lỏn “A lô” rồi lại cúp. Tôi lại gọi, và lần này thì cho dù có tiếng u u nhưng chẳng có ai trả lời. Lúc đó vào khoảng giữa tháng ba 1975.
Trở lại văn phòng Liên Đoàn Khóa Sinh tôi nói với chị K’LAN một câu buông thõng:
Không liên lạc được
Chị K’LAN nhổm dậy, hai mắt tròn xoe hỏi:
Sao vậy? Không liên lạc được?
Đúng vậy, đến tổng đài Oanh Liệt của Quân Đoàn rồi nhưng chẳng có ai trả lời. Lần đầu có một người nào đó nói hai chữ “A lô” rồi bỏ máy xuống. Lần thứ hai thì họ không thèm trả lời luôn. “Dial tone” kêu mấy lần rồi bụp. Thế là máy cúp luôn. Có lẽ trên Pleiku bây giờ chộn nhộn lắm. Gọi đến mấy lần và lần nào cũng đều như thế chị a.
Nghĩa là….
Nghĩa là… hết cách
Chị K’LAN dùng tay áo quẹt nước mắt nói:
Thôi em về. Cám ơn anh, và chào anh. Miệng nói nhưng cặp mắt chị xa xăm. Tôi hiểu tâm trạng của chị. Tôi tiễn chân chị ra cửa Liên Đoàn Khóa Sinh. Chị quay lại nhìn tôi hai mắt đẫm lệ rồi quay đi.
Bầu trời mùa hạ xanh trong không gợn một chút mây, tuy nhiên mây gió chiến tranh đang ào ạt kéo về thành phố thủ đô này rồi.
April 30, 2000
Viết tại Nghênh Phong Các thành phố Santa Ana, quận Orange California, Hoa Kỳ
Vân Hải Nguyễn Xuân Hùng
[i] Tốt nghiệp Thủ Đức Khóa 15 Địa Phương Quân
[ii] Nghĩa là mười phần chết thì mới có hy vọng một phần sống mà thôi
[iii] Tức Trung tá Phạm Anh Hương
[iv] Tức Đại Tá Nguyễn Văn Phúc
[v] Đại Tá Biệt Động Quân Nguyễn Thế Nhu
[vi] Tức là Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, nguyên Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu 2. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2 trong một cuộc họp ngắn tại Cam Ranh đã đôi ba lân khẩn thiết xin Tổng Thống Thiệu chấp nhận thăng cấp Chuẩn Tướng một sao cho đại tá Phạm Duy Tất để ông này thay ông chỉ huy cuộc rút lui từ Pleiku về Phú Yên. Tướng Tất đã bị cộng sản bắt sống ở Phú Bổn
[vii] Hậu Bổn trước có tên là Cheo Reo, thị trấn Cheo Reo. Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho thành lập tỉnh Phú Bổn và đổi tên thị trấn Cheo Reo thành Hậu Bổn
[viii] Vợ Trung Úy Nguyễn Văn Nghiêm, Sĩ Quan Chính Huấn thuộc Đại Đội 201 Chiến Tranh Chính Trị
[ix] Sau này năm 1967 Chuẩn Úy K’LAN và vợ có làm một tiệc rượu tại Khu Gia Binh Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị mời tất cả các sĩ quan trong tiểu đoàn tham dự. Hồi ấy Đại Úy Ngô Vân Hòa cũng vẫn còn là Tiểu Đoàn Trưởng. Trong lần triệt thoái về Phú Yên xuyên qua liên tỉnh lộ 7, Đại Úy K’Lan mất tích ở khoảng giữa Pleiku và Phú Bổn, và không còn tin tức gì nữa. Có người thuộc Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị nói K’LAN bị trúng đạn Việt Cộng và từ trần ngay trên đường rút lui.
[x] Đại Úy Tải và gia đình hiện giờ cư ngụ tại tiểu bang Oregon Hoa Kỳ
[xi] Quê ở Cây Dầu Đôi Nha Trang, tốt nghiệp khóa 15 Thủ Đức. Hường trước là sĩ quan Dân Sự Vụ thuộc Đại Đội 2 Dân Sự Vụ sau đổi thành 21 Dấn Sự Vụ, để rồi cuối cùng sát nhập vào Tiểu Đoàn 2 Chiến Tranh Tâm Lý với danh xưng mới là Tiểu Đoàn 20 Tâm Lý Chiến
[xii] Tức Trung Tá Nguyễn Văn Minh, nguyên Trưởng Khối Tổ Chức Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị
[xiii] Đại Úy Hóa theo học khóa 16 Thủ Đức nhưng thuộc tài nguyên Sĩ Quan Địa Phương Quân cho nên khi ra trường, thay vì đeo lon chuẩn úy như chúng tôi anh đeo lon thiếu úy. Kết hôn với con gái Trung Tá Phạm Văn Khanh một cựu Chỉ Huy Trưởng của Trung Tâm. Thời Đại Tá Phúc và cả thời Trung Tá Minh, anh làm Sĩ Quan An Ninh Của Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Chiến Tranh Chính Trị nhưng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 người ta mới vỡ lẽ ra rằng anh là con của một sĩ quan cấp đại tá của cộng sản Bắc Việt. Tuy nhiên Hóa tính tình hiền lành, và cũng không có hành động nào phản bội lại đơn vị mà anh phục vụ. Sau này Hóa hành nghề “chung tiền” cho những gia đình nào có thân nhân từ Mỹ gửi tiền về, và tình cờ anh ta đến nhà tôi chung tiền cho mẹ tôi cho nên tôi mới gặp lại anh. Có lẽ Hóa nghĩ có thể tôi đã biết chuyện của anh với bố ruột anh cho nên câu chuyện giữa chúng tôi cũng không mặn mà lắm, dù cả mười năm sau mới gặp lại nhau.


SỰ THẬT VỀ CUỘC TRIỆT THOÁI KHỎI CAO NGUYÊN NĂM 1975

1 : TẠI SAO LẠI BỎ PLEIKU, KONTUM ?

0

Tài liệu của CIA : “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” ( Frank Snepp, Decent Interval, trang 95 ).
Cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8-1974, John Murray họp buổi họp chót với Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng; Tướng Đồng Văn Khuyên, Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2, và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau bổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, Bộ trưởng Bộ kế hoạch của VNCH thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “cắt đất theo lượng viện trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 39 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến ( tối kiến ) của Nguyễn Văn Thiệu.
Theo Tướng Cao Văn Viên, ngày 11-3 Tướng Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó :
“Quyết định của Tổng thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
“… Tổng thống Thiệu phác họa sơ : …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cọng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá… …Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại… …” ( Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131 ).
“…VNCH không còn hy vọng nào. Một thực tế gần như hiển nhiên là HK không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với HK, cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” ( trang 132 ).
Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng thống Thiệu bỏ Kontum-Pleiku. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu.
Tại sao không cho Mỹ biết ?
Tài liệu của CIA : “Lý cho Nicol biết ngày mai 14/3 tướng Phạm Văn Phú sẽ họp với tổng thống Thiệu tại Cam Ranh. Buổi họp được giữ kín và máy bay của tướng Phú sẽ đi Qui Nhơn trước để đánh lạc hướng. Lý hứa với Nicol có tin gì sau khi Phú đi họp về Lý sẽ cho hay” ( CIA và Các Ông Tướng, Bản dịch của Trần Bình Nam ).
Đại tá Lý là một điệp viên của CIA, được Tướng Cao Văn Viên đưa vào làm tham mưu trưởng của Tướng Phú. Lần này Tổng thống Thiệu muốn đánh lạc hướng theo dõi của CIA nhưng không ngờ mật thám của CIA đứng ngay sau lưng Tướng Phú. Do đó mưu tính đánh lạc hướng của TT Thiệu trở thành vô ích.
Tài liệu của Phạm Huấn : “Để bảo mật cho chuyến đi của ông Thiệu, nên đã không có một chuẩn bị nào tiếp đón ông và phái đoàn. Ngay cả một cái thang cao dùng cho loại máy bay lớn DC.6, DC.4 cũng không có.
Chiếc “biệt thự bay” tiến vào chỗ đậu. Một chiếc xe jeep được lái tới sát bên. Ông Thiệu và các tướng Khiêm, Viên, Quang lần lượt… “tụt” bằng đít khỏi chiếc DC.6 rồi bước lên mui xe !” ( Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên, trang 80 ).
Hồi ký của Đại tá Phạm Bá Hoa : Ngày 15-3-1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo : “Đại tá Hoa tôi nghe”. – “Có ai ngồi gần anh không?” – “Dạ không, thưa Đại tướng”. Đó là Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cọng Hòa. Ông tiếp : “Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hành”. – “ Vâng, tôi rõ thưa Đại tướng”… ….
Để giấu ai mà các nhà lãnh đạo VNCH phải khổ sở như vậy ? Chắc chắn không phải để che mắt báo chí hay CSVN, bởi vì che mắt báo chí hay CSVN thì không cần giấu CIA. Nhưng đằng này giấu cả CIA thì có nghĩa là không cho Mỹ biết.
Vấn đề còn lại là tại sao không cho Mỹ biết ? Câu trả lời là nếu Mỹ biết thì những người Miền Núi ở Tây Nguyên sẽ biết, và họ sẽ không để yên cho quân đội VNCH bỏ rơi họ.
Tài liệu The Final Collapse của Đại tướng Cao Văn Viên viết cho Ngũ Giác Đài là năm 1976, thuở đó còn nhiều sự thật chưa được phép tiết lộ, cho nên ông không giải thích vì sao các ông phải khổ sở giấu lén như vậy. Dĩ nhiên ít nhất trên đường đi từ Sài Gòn ra Đà Lạt rồi Cam Ranh Tướng Thiệu phải cho các tướng biết về ý đồ bỏ Cao Nguyên của ông và vì sao phải giấu người Mỹ : Đó là VNCH buộc phải bỏ rơi người Miền Núi.
Ngày nay lịch sử còn lại lời chứng của Tướng Phạm Duy Tất : Chuẩn tướng Tư lệnh phó Quân đoàn 2 Trần Văn Cẩm hỏi : “ Còn các tỉnh trưởng, lực lượng địa phương và dân chúng có tổ chức cho họ rút không?”. Phú trả lời: “Theo lệnh ông Thiệu, bỏ lực lượng này lại, không được thông báo cho các tỉnh trưởng, cứ để họ tiếp tục chống giữ. Khi chúng ta rút xong, ai biết thì biết. Địa phương quân toàn là người Thượng thì trả chúng về với cao nguyên” ( Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, Việt Nam thư quán ).
Dĩ nhiên khi Tổng thống Thiệu ra lệnh bỏ người Thượng lại Cao Nguyên thì ông và các tướng cùng đi đều biết rằng lực lượng địa phương là 45 ngàn cựu Biệt kích Mỹ ( CIDG, Dân Sự Chiến Đấu ). Sau khi quân Mỹ rút đi thì 45 ngàn quân này trở thành Địa phương quân và Biệt động quân Biên phòng. Danh tính 4 liên đoàn Biệt động quân Biên phòng của Quân khu II xuất thân từ Biệt kích Mỹ là Liên đoàn 21, Liên đoàn 22, Liên đoàn 24, và Liên đoàn 25 BĐQ.
Người Mỹ và lực lượng chiến đấu người Miền Núi có quan hệ với nhau như thế nào mà Tướng Thiệu không muốn cho người Mỹ biết ? Tài liệu của Nguyễn Tiến Hưng ( sau nhiều cuộc phỏng vấn cựu Tổng thống Thiệu ) cho biết : “…năm 1960 khi CIA ( Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ ) và Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ gởi người lên Cao Nguyên tổ chức và võ trang dân Thượng chống CS Bắc Việt. Người Mỹ cung cấp dược phẩm, súng đạn, thực phẩm, và xử sự như giới trung gian giữa người Việt và người Thượng…” ( Bí Mật Dinh Độc Lập trang 444 )
Và : “Để bảo vệ an ninh cho cuộc rút lui này, ông Thiệu ra lệnh bảo mật tối đa, để các lực lượng địa phương, phần lớn là dân Thượng, không biết trước về vụ này.
Ngay sau khi 200 chiếc xe vận tải đầu tiên rời khỏi Pleiku đã được tung ra khắp tỉnh. Đám người Thượng thấy mình bị bỏ rơi bèn quay mũi súng về đoàn quân đang tháo lui…” ( trang 449 ).
Vậy thì đã rõ, nguyên nhân của việc tạm giấu người Mỹ là vì người Mỹ có trách nhiệm với các dân tộc Miền Núi cho nên họ sẽ không chấp nhận chuyện bỏ rơi người Miền Núi, chắc chắn họ sẽ thông báo cho các lực lượng cựu Biệt kích Mỹ biết để họ tự lo cho dân tộc của họ. Dĩ nhiên một khi các lực lượng vũ trang của người Miền Núi tự lo thì chỉ còn có cách là bắt giữ các sĩ quan và công chức người Kinh làm con tin, để làm áp lực buộc chính phủ Sài Gòn không được bỏ rơi họ.
Tài liệu của Nguyễn Tiến Hưng cho biết sáng ngày 16-3 thì người Miền Núi biết tin VNCH rút khỏi Cao Nguyên. Nhưng nếu so lại với tài liệu “CIA and The Generals” của CIA thì mới lòi ra sự thật đau lòng : Sáng ngày 15-3 chính Lê Khắc Lý báo cho người Mỹ biết kế hoạch mật của VNCH và sau đó người Mỹ đã báo cho lực lượng vũ trang của người Miền Núi biết. Mọi chuyện trở nên loạn là từ lúc này; loạn tại Kon Tum, loạn tại Pleiku, loạn tại Phú Bổn, loạn trên LTL.7 …
Kế hoạch của Tổng thống Thiệu và kế hoạch của Tướng Phú chủ yếu dựa trên yếu tố bí mật và bất ngờ. Thế nhưng hành vi phản bội của Lê Khắc Lý đã làm đảo lộn tất cả, cuộc rút quân đã biến thành cuộc chạy loạn.
Lực lượng vũ trang của người Miền Núi
Liên đoàn 22 BĐQ tại Kon tum do Trung tá Bùi Văn Huấn chỉ huy, nhưng liên đoàn này có nguồn gốc là 3 tiểu đoàn cải tuyển từ Lực lượng Biệt kích Mỹ, tất cả gia đình của họ đều sinh sống tại Kontum và Pleiku cho nên họ không có lý do gì để di tản. Họ phải ở lại buôn làng của họ. Đây là một đòi hỏi chính đáng và hợp lý. Nhưng một khi đòi hỏi của họ không được thỏa mãn thì sẵn súng trong tay họ phải dơ súng ra để làm áp lực, và cuối cùng trong cơn tức giận họ đã thanh toán các cấp chỉ huy người Kinh để trị tội đã bỏ rơi các dân tộc Miền Núi.
Cùng có nguồn gốc như Liên đoàn 22 BĐQ là Liên đoàn 21, 24, 25. Nhưng Liên đoàn 21 BĐQ do Trung tá Lê Quý Dậu chỉ huy đã cởi áo tan hàng tại Phước An, Ban Mê Thuột vào ngày 16-3. Trong khi đó Liên đoàn 24 BĐQ do Trung tá Hoàng Kim Thanh chỉ huy, bị kẹt lại Quảng Đức sau khi BMT thất thủ cho nên binh lính trong Liên đoàn nghe theo Trung tá Thanh (và sau đó là Thiếu tá Vũ Mộng Long ), đưa toàn Liên đoàn về Bảo Lộc để rồi hy vọng sẽ theo đoàn quân tái chiếm BMT. CònLiên đoàn 25 BĐQ do Đại tá Đặng Hưng Long chỉ huy cũng là một Liên đoàn Biệt kích cải tuyển, được dự trù sẽ đi trong ngày chót của kế hoạch di tản. Nhưng đến giờ cuối Liên đoàn tan hàng tại Thanh An, phía Tây của Pleiku.
Ở đầu đoàn di tản có Tiểu đoàn 34 của Liên đoàn 6 BĐQ của Trung tá Khánh. Đây là Liên đoàn trừ bị của TTM tại Sài Gòn, hầu hết là người Sài Gòn, Tây Ninh. Trong tháng 3 năm 1975 BCH Liên đoàn 7 BĐQ cùng 2 tiểu đoàn trực thuộc từ Pleiku di chuyển xuống Bắc Bình Định để trấn giữ đèo Bình Đê thay thế cho Liên đoàn 4 BĐQ , chỉ còn Tiểu đoàn 34 BĐQ trụ lại ở Trung Nghĩa để tiếp tục trấn giữ Quốc lộ 19, cách Pleiku khoảng 20 cây số. Tại Trung Nghĩa lúc đó còn có 1 Thiết đoàn Kỵ binh đang chuẩn bị hành quân giải tỏa Quốc lộ 19 đang bị CSVN chiếm đóng tại đèo An Khê. Trong ngày đầu di tản, Tiểu đoàn 34 BĐQ do Thiếu tá Trịnh Trân chỉ huy được lệnh theo Thiết đoàn Kỵ binh di chuyển về Pleiku rồi xuống Phú Bổn.
Ở giữa đoàn di tản có Liên đoàn 7 BĐQ do Đại tá Nguyễn Kim Tây chỉ huy, là Liên đoàn trừ bị của TTM tại Sài Gòn cho nên binh sĩ trong Liên đoàn trở thành lực lượng chính để giữ gìn an ninh trật tự cũng như bảo vệ an ninh cho đoàn di tản. Ở cuối đoàn quân có Liên đoàn 4 BĐQ do Đại tá Vũ Phi Hùng chỉ huy cũng là Liên đoàn trự bị của Bộ TTM tại Sài Gòn. Liên đoàn 4 có gốc gác là Liên đoàn chủ lực của Quân khu 4 cho nên đa số binh sĩ là người Miền Tây Nam Bộ.
Trách nhiệm an ninh trục lộ cho đoàn di tản tại Phú Bổn được giao cho Liên đoàn 23 BĐQ do Đại tá Lê Tất Biên chỉ huy. Liên đoàn này xuất thân từ tiểu đoàn BĐQ đầu tiên được thành lập tại Cao Nguyên, hầu hết binh sĩ là người Kinh, gia đình, thân nhân sinh sống tại Pleiku, Kontum. Liên đoàn lên đường cùng với Lữ đoàn 2 Thiết giáp vào ngày đầu của chiến dịch nhưng sĩ quan và binh sĩ chỉ nhận được lệnh là hành quân xuống Phú Bổn để từ đó đánh qua Khánh Dương, tái chiếm Bam Mê Thuột.
Ban đầu Đại tá Biên đã cho bố trí Tiểu đoàn 11 BĐQ tại đèo Tu Na, Tiểu đoàn 23 tại đèo Tử Sĩ, Tiểu đoàn 22 đóng ở phía Tây thị xã Hậu Bổn để bảo vệ toàn bộ thị xã. Nhưng trong đêm 17-3 binh sĩ của Liên đoàn biết được tin Pleiku, Kontum di tản trong khi gia đình của họ đang còn kẹt ở lại cho nên họ nổi loạn uy hiếp các xe quân vận phải chở họ trở lại Pleiku. Đại tá Lê Khắc Lý đích thân tới giải quyết nhưng bị binh sĩ BĐQ đòi bắn nên ông ta rút lui về báo cáo cho CIA tại Sài Gòn là thị xã Hậu Bổn đã hỗn loạn vô phương cứu vãn (sic).
Ngoài các liên đoàn BĐQ, tại Phú Bổn còn có các tiểu đoàn và đại đội ĐPQ, tất cả đều là người Miền Núi, cũng có nguồn gốc từ các đại đội Biệt kích Mỹ. Khi biết được quân đội VNCH sẽ bỏ Cao Nguyên thì họ rất tức giận, cho rằng người Kinh đã phản bội họ, cho nên có một số đã xả súng bừa vào đoàn di tản để trút hận.
Tại Sài Gòn, một nhà báo nổi tiếng của Pháp là Paul Leandri đã nhanh chóng loan tin tàn sát cấp chỉ huy người Kinh ra toàn thế giới cho nên ông ta bị bắt ngay và bị bắn chết trong một đồn cảnh sát. Cơ quan CIA (Frank Snepp) loan tin rằng ông ta bị bắn do chạy ra một chiếc xe toan trốn khỏi nơi bị giam. Tuy nhiên không ai tin rằng một nhà báo gạo cội lại ngu xuẩn đến như vậy. Chính tin tức mà ông muốn loan đã hại ông ta :
Sở dĩ Leandri bị giết bởi vì trong khi mà 3 Liên đoàn Biệt Động Quân gốc Biệt kích Mỹ thanh toán các cấp chỉ huy người Kinh thì cùng lúc đó, tại Sài Gòn, cơ quan CIA đang cho thì hành kế hoạch di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam. Nhưng tin tức của Paul Leandri nếu được lan truyền sẽ tạo thành một làn sóng tâm lý, rủ nhau thanh toán người Mỹ một khi các quân nhân Việt Nam thấy người Mỹ bỏ chạy. Nhất là các quân nhân thuộc Lực Lượng Đặc biệt Việt Nam; họ sẽ suy ra ai đã lập ra Lực lượng Biệt kích Mỹ mà rốt cuộc thì đồng đội của họ phải nhận lãnh mọi sự trả thù của các quân nhân người Thượng. Và nay tới phiên người Mỹ rút chạy thì họ cũng sẽ bị thanh toán. Đó là ngón đòn dành cho kẻ phản bội.
Theo biên bản xét nghiệm tử thi của bệnh viện Grall thì Leandri bị bắn bằng một phát đạn kê sát mang tai bắn lên. Và theo một bài tùy bút của giáo sư Nguyễn Ngọc Bích thì Leandri bị Đại tá cảnh sát Phạm Kim Qui bắn chết rồi bắt Việt Tấn Xã phải loan tin theo như báo cáo của đồn cảnh sát.
Cũng theo sách của Frank Snepp thì giám đốc CIA tại Sài Gòn là Polgar đã được Đại sứ Pháp gọi đến Tòa đại sứ Pháp vào giữa khuya hôm đó để “nói chuyện phải quấy”. Điều này chứng tỏ CIA là người chịu trách nhiệm về cái chết của Leandri chứ không phải là Đại tá Phạm Kim Qui. Ông Qui chỉ là người thừa hành.

2: CUỘC HỌP TẠ I CAM RANH NGÀY 14-3-1975


30/4 Nhìn lại một chặng đường !

Bấm vào đường link dưới đây để xem các phần tiếp theo :

Bên thắng cuộc : Chương 1 ( phần 1)

saigon-30-4-1975_o

Phần I: Miền Nam

Chương I: Ba Mươi Tháng Tư

Ba mươi tháng Tư năm 1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ngày mà những người anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc. Ngày chấm dứt hơn hai mươi năm “da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách”. Nhưng, không phải cứ  súng ống vứt đi là sẽ có hòa bình.

Đi từ bưng biền

Sáng sớm ngày 30-4-1975, “cánh” của ông Võ Văn Kiệt về tới một khu “đám lá tối trời” thuộc huyện Bình Chánh. Hai mươi hai ngày trước, ông Lê Đức Thọ vào Trung ương Cục, sau đó, công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng thời trao quyết định cử ông Võ Văn Kiệt làm bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định, cử ông Lê Đức Anh làm phó bí thư kiêm chủ tịch Ủy ban Quân quản, và ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh đảm trách lực lượng nổi dậy phối hợp với quân chủ lực.

Từ R, căn cứ Trung ương Cục ở huyện Lộc Ninh, ông Kiệt cùng một bộ phận phục vụ gọn, khoảng hai trung đội, chạy xe Honda 67 bọc qua phía Campuchia, tới cửa biên giới Mỏ Vẹt, Long An thì bỏ xe lại, đi bộ. Ông Kiệt không lúc nào rời chiếc radio ba làn sóng hiệu JVC của Nhật. Đài Hà Nội lúc đó gần như liên tục phát Bão Nổi Lên Rồi, một bài hát mà nhịp điệu thì hối hả, lời lẽ thì thôi thúc: “Từ Trị Thiên băng qua Tây Nguyên đi tới bưng biền lòng người bừng bừng, cùng tiến lên thời cơ đã đến rồi”.

Thời cơ đã đến! Anh em phục vụ quan sát thủ trưởng, trong lòng cảm thấy lần này chắc ăn. Nhưng thủ trưởng vẫn im lặng. Ngày 27-4, đoàn vượt qua sông Vàm Cỏ Đông, tới xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, gặp cánh ông Mai Chí Thọ đã về trước ém quân ở đó. Ông Năm Xuân Mai Chí Thọ, phó bí thư Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định vào thời điểm đó, là người thông thạo các đầu mối hoạt động nội thành. Hai đoàn bắt đầu nhập lại làm một. Ít ai nghĩ rồi những người đàn ông mặc đồ bà ba đen, đi dép râu, mặt mũi khắc khổ, đang xắn quần lội ruộng đó, chỉ vài ngày nữa sẽ nắm quyền lãnh đạo Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông.

Sáng hôm sau, khi sương sớm còn phủ trắng, từ nơi tạm dừng nhìn qua phía bên kia cánh đồng, cánh ông Kiệt nhìn thấy lố nhố xe pháo. Lúc đầu có người tưởng là xe tăng “địch”, tới khi sương mù bớt đi mới nhận ra: “Cơ man tăng. Tăng mình!”. Ông Kiệt viết thư, niêm kín, ra lệnh cho thư ký riêng là ông Phạm Văn Hùng (Ba Hùng), đi kiếm Trung tướng Lê Đức Anh. Tướng Lê Đức Anh tới lúc ấy vẫn là phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, được giao chỉ huy Đoàn 232, một lực lượng tương đương quân đoàn, tiến vô Sài Gòn ở hướng Tây Nam. Dọc đường Ba Hùng đi, đạn pháo nằm la liệt trên các bờ ruộng, bờ kênh; dân công rầm rập, bộ đội, xe tăng lớp lớp. Tướng Lê Đức Anh viết thư trả lời “Anh Sáu Dân” (bí danh của ông Kiệt), rồi cũng niêm kín, đưa Ba Hùng cầm về. Sau này ông Phạm Văn Hùng mới biết đó là thông tin về giờ G. Giờ G, ngày N, tức 00 giờ 00 phút ngày 29-4-1975, là giờ quy định cho tất cả năm cánh quân của quân Giải phóng đồng loạt nổ súng tấn công vào Sài Gòn.

Trưa 29-4, đoàn lội bưng, băng vô vườn thơm Tân Nhựt, Bình Chánh, hạ trại nấu cơm. Bếp rơm có khói, một chiếc trực thăng trờ tới, lia vài băng đạn vu vơ. Cách đó không xa lắm là đồn Lý Văn Mạnh, nhưng lính trong đồn giờ đó đã không còn dám ra ngoài. Đêm ấy, ở lại Tân Nhựt, Ba Hùng mắc võng bên cạnh ông Kiệt, nằm nghe tiếng pháo, sau biết là “ta pháo kích vô Tân Sơn Nhất”, hai thầy trò trăn trở không làm sao ngủ được. Sáng 30-4, ông Kiệt, trong khi trao đổi tình hình với ông Mai Chí Thọ, không quên phân công người theo dõi đài phát thanh và cho phép anh em nấu ăn. Từ đêm trước, chưa ai có hột cơm nào vô bụng.

Tới khoảng 9 giờ 30 phút sáng, Đài Sài Gòn im lặng rất lạ, rồi tiếng phát thanh viên: “Mời đồng bào nghe tuyên bố của Tổng thống”. Mọi người xúm lại quanh chiếc radio theo dõi phát biểu của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hoà giải và hoà hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sỹ Cộng hoà hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng, và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sỹ Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận về lễ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự, tránh đổ máu vô ích của đồng bào”.

Lời Tướng Minh vừa dứt, Võ Văn Kiệt ra lệnh: “Giản chính đồ đạc. Đi!”. Đoàn người lúc đó chẳng kịp ăn uống mà vẫn no tới tận cổ, băng đồng ra lộ, đi về hướng Phú Lâm, cửa ngõ phía Tây Thành phố. Dọc đường, lính Sài Gòn bắt đầu trút bỏ quân phục, súng ống, binh khí vất la liệt. Anh em bảo vệ lúc đầu còn khệ nệ xách, sau thấy lếch thếch quá, lại vứt đi. Có nơi lính Sài Gòn ra hàng cả tiểu đoàn. Quân Giải phóng chỉ kịp giải thích chính sách rồi ai ở đâu về đó. Sự tan rã của chế độ Sài Gòn diễn ra gấp gáp khiến ông Kiệt quá sốt ruột. Ông gọi Tư Thạch và Chín Anh, hai người cận vệ vốn là dân thành phố, đến, ra lệnh: “Hai đồng chí tìm cách kiếm xe, nhanh chóng đưa Đại quân vô Sài Gòn!”.

Chín Anh cùng Tư Thạch ra lộ, gặp hai người bận đồ công nhân, chạy xe máy từ phía Sài Gòn ra. Chín Anh nói: “Tụi tôi là Giải phóng. Nhờ mấy anh quay lại, đưa tụi tôi vô Sài Gòn”. Hai người này sốt sắng: “Mời mấy anh”. Chín Anh tính đi thẳng vô Phú Lâm nhưng mới tới xa lộ vành đai thì thấy một chiếc xe tải quân sự hiệu GMC mới cáu đậu sẵn bên lề đường. Trên xe không biết lực lượng nào đã cắm sẵn một lá cờ Giải phóng. Chín Anh hỏi: “Mấy anh biết lái xe không?”. Một người nói liền: “Tôi là tài xế nè”. Chín Anh cho kiểm tra lại xe, thấy xe tốt, kêu hai “chiến sỹ” vừa được “trưng dụng” đưa xe máy vô nhà dân cạnh đường gửi, rồi lái chiếc xe quay lại.

“Đại quân” lúc này vẫn đi bộ theo Lộ 10, gặp xe mừng quá, nhanh chóng leo lên. Chín Anh ngồi bên cạnh tài xế, ông Kiệt và ông Năm Xuân ngồi kế bên. Bốn, năm anh em khác bám hai bên thùng xe để bảo vệ. Một tốp thanh niên thấy chiếc GMC cắm cờ Giải phóng chạy vô phố, cứ thế phóng xe máy theo. Dọc đường, chỗ nào cũng có lính Việt Nam Cộng hoà cởi áo, cởi giày, chạy. Người dân gom vô, lấy chỗ cho chiếc xe quân sự Mỹ chở một trong những nhà lãnh đạo “Việt cộng” đầu tiên tiến vào Sài Gòn.

Ông Võ Văn Kiệt, ông Mai Chí Thọ và những người trên chiếc xe GMC hôm đó, có người đã suốt ba mươi năm mắc võng nằm rừng. Giờ ngắm phố xá chạy vùn vụt bên cửa xe, mắt họ cay xè vì sung sướng. Không ai trong số họ, sau đó, có thể diễn đạt lại được cảm giác khi ấy của mình, nhưng cuộc đời họ rồi sẽ khó lòng có lại một niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui trong cái ngày 30-4 đó.

Xuân Lộc

Trong khoảng thời gian cánh ông Võ Văn Kiệt tìm cách di chuyển vô nội thành, chính những chiếc tăng của Lữ đoàn 203, Quân đoàn II đã viết nốt những dòng cuối cùng của một trang sử.

Kế hoạch “bao vây chiến lược Sài Gòn” bắt đầu từ ngày N. Lúc đầu, theo Tướng Trần Văn Trà, ở phía Tây, Đoàn 232 do Tướng Lê Đức Anh làm tư lệnh cũng gặp không ít khó khăn; phía Đông, đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10-4, Quân đoàn IV gồm hai sư đoàn tấn công thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Cuộc tấn công đã chọc thủng tuyến phòng ngự thị xã bằng nhiều mũi, nhanh chóng phát triển vào trung tâm. Tuy nhiên, sau khi cắm cờ trên dinh tỉnh trưởng và làm chủ một loạt các căn cứ khác, ngày 10-4, một lữ đoàn dù của Việt Nam Cộng hòa được trực thăng vận đưa tới thị xã để chi viện gấp và “giữ tinh thần cho Sư đoàn 18”.

Cho đến ngày 15-4, gần hết tăng thiết giáp của Quân đoàn III và một lực lượng tương đương một sư đoàn thuộc quân trù bị dù và thủy quân lục chiến của Sài Gòn đã được điều về. Trận Xuân Lộc được được coi là khốc liệt nhất trong toàn chiến dịch. Quân đội Sài Gòn đã ném xuống đây hai loại bom có khả năng sát thương hàng loạt: Daisy Cutler và CBU7. “Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”, mọi sức mạnh có thể đều được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sử dụng.

Hãng UPI (Mỹ), ngày 12-4, cho rằng, Xuân Lộc được chọn làm nơi thí nghiệm khả năng chiến đấu của quân Nam Việt Nam. Khi quân Giải phóng gặp khó khăn, thương vong rất lớn ở Xuân Lộc, báo chí Sài Gòn đánh giá khả năng chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hồi phục, và còn đủ mạnh để giữ vững chế độ.

Theo Tướng Trần Văn Trà, tình hình đó khiến cho “các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng và cả anh Lê ĐứcThọ rất lo lắng”. Tướng Trà viết: “Trận đánh quá ác liệt, e rằng các đơn vị ta bị thương vong nặng trong thời điểm này không lợi. Vì vậy các anh gợi ý có thể cho anh em rút ra khỏi thị xã… tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi, nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh. Các anh đều đồng ý”8. Chiều 11-4, Tướng Trà đến chỉ huy sở của Quân đoàn IV đóng trên bờ sông La Ngà. Sau khi nghe ý kiến của các tướng chỉ huy ở đây, Tướng Trà kết luận: “Xuân Lộc là điểm then chốt, hết sức quan trọng trong tuyến phòng ngự, nên địch đã tập trung nhiều lực lượng cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đã chiếm ưu thế so với ta. Ta cũng không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là không lợi… Nếu ta chiếm ngã ba Dầu Giây và giữ vững luôn… thì Xuân Lộc tự dưng mất hết tác dụng vì bị đặt ra ngoài tuyến phòng thủ. Biên Hòa thì sẽ lập tức bị uy hiếp”9. Tất cả nhất trí với phương án tác chiến này.

Chương 1 Bên Thắng Cuộc : Phần 2


Bước nhảy của tự do !

c41a3-untitled
Chỉ có niềm khao khát mãnh liệt mới thôi thúc con người vượt lên trên chính họ, vượt qua nỗi sợ hãi, để bằng một hành động dũng cảm tự giải thoát chính mình. Người lính biên phòng Đông Đức, anh Conrad Schumann, khi ấy mới 19 tuổi. Conrad Schumann đã phóng qua hàng rào kẽm gai ngày 15/8/1961 để tìm tự do ở Tây Đức trong lúc bức tường Bá Linh mới bắt đầu được xây dựng.Người thanh niên can đảm này có thể bị bắn chết như khoảng 200 người khác trước và sau anh. Nhưng may mắn anh đã thoát được. Sau ngày bức tường Bá Linh sụp đổ, trong ngày lễ kỷ niệm hai mươi năm, nước Đức đã dựng tượng đài của anh để diễn đạt nỗi khao khát tự do của con người.
Rất nhiều năm sau ngày đất nước đã thống nhất, người dân Đông Đức vẫn giữ trong trí nhớ mình cảm giác sợ hãi của những ngày tháng sống dưới sự kiểm soát của công an và mạng lưới mật vụ Stasi. Hồi tưởng mức độ căng thẳng tinh thần trong những năm tháng đó, Thủ tướng Đức, bà Agela Merkel đã bày tỏ: “Cần phải giữ làm sao để họ không buộc mình phát điên”. Một phụ nữ từng sống ở Đông Đức đã nói với cô con gái của chị rằng: suốt trong khoảng 10 năm, chị vẫn nằm mơ từng đêm thấy mình trở về Đông Đức, sinh sống tại đó. Nhưng may mắn thay, đó chỉ là một cơn ác mộng mà thôi! Nhân kỷ niệm 25 năm ngày bức tuờng Bá Linh sụp đổ, nhiều người Việt cũng không khỏi bùi ngùi nhớ lại biến cố 30/4/75 trên đất nước mình. Nước Đức thống nhất không mất một giọt máu, chỉ có tiếng cười và nỗi hân hoan của người dân cả hai miền. Đêm 9/11/1989 dân Đức đua nhau trèo lên bức tường đã ngăn chia tổ quốc của họ suốt 28 năm. Họ đứng, họ ngồi, họ ca hát, họ vui đùa như những đứa trẻ, thỉnh thoảng người ta nghe thấy những tiếng thét to “Wir sind ein Volk!”, “Wir sind ein Volk!” (chúng ta cùng một dân tộc!).
(…) Đêm 9/11/1989 lính biên phòng Đông Đức đã tự động buông súng xuống để cho người dân vượt qua các cửa ngõ biên giới. Thành phố Berlin từ 9 giờ tối cho đến 2 giờ sáng đã chào đón khoảng 20.000 người vượt qua bức tường Bá Linh để tìm đến với tự do. Nước Đức đã có một đêm không ngủ, đây là một cuộc bỏ phiếu bằng chân lớn nhất trong lịch sử quốc gia này. Dòng người từ Đông Bá Linh như một khối nham thạch tuôn chảy, họ đi bộ thâu đêm suốt sáng, hàng hàng lớp lớp nối đuôi nhau tưởng chừng như không bao giờ dứt.
Nhưng Đông Đức một ngày trước đó không hề bình yên, suýt chút nữa đã xảy ra một cuộc tắm máu. Chính quyền đã huy động hơn 8000 binh lính gồm cả cảnh sát và mật vụ Stasi trong tư thế chuẩn bị cho một trận đàn áp. Nhưng cuối cùng, cuộc đàn áp đã không xảy ra như dự định, ước muốn mãnh liệt của người dân đã buộc chính quyền phải thay đổi. Ước muốn ấy đã xô đổ bức tường Bá Linh và làm cho quân đội Đông Đức phải buông súng. Nó cũng là nguyên nhân làm sụp đổ khối thành trì cộng sản kiên cố ở Đông Âu,
Tưởng cũng nên nhắc lại bối cảnh lúc đó: sau khi Công Đoàn Đoàn Kết thắng lớn tại BaLan, Hungary là quốc gia tiếp nối từ bỏ chế độ cộng sản. Quyết định mở cửa biên giới của Hungary đã giúp hơn 30.000 người Đông Đức di cư sang Tây Đức qua ngã biên giới của quốc gia này. Để ngăn chận làn sóng di cư, chính quyền Đông Đức liền ngưng ngay việc cấp giấy phép du lịch đến Hungary. Tiệp Khắc bỗng nhiên trở thành một nước láng giềng duy nhất mà người dân Đông Đức có thể thoát ra ngoài qua ngã du lịch. Dân Đông Đức đã không từ bỏ ước muốn được vượt biên đến Tây Đức, họ tìm mọi cách để xin trú ngụ ở các cơ sở ngoại giao của các thủ đô Đông Âu khác. Đặc biệt tại Đại sứ quán Prague, đã có hàng ngàn người Đông Đức đã cắm trại trong vườn toà Đại Sứ suốt từ tháng 8 cho đến tháng 11. Khi chính quyền Đông Đức ra lịnh đóng cửa biên giới với Tiệp Khắc, cửa ngõ cuối cùng để vượt thoát ra ngoài đã bị đóng lại, lúc này người dân Đông Đức bắt đầu cuộc biểu tình của mình. Cuộc biểu tình ôn hoà tại thành phố Leipzig được tổ chức vào mỗi thứ hai, ban đầu chỉ có hơn 100 người tham dự, nhưng chỉ trong vòng một tháng con số đã lên đến gần 1 triệu người. Lực lượng cảnh sát gần như bó tay trước số lượng người biểu tình cứ tăng dần lên. Cuối cùng, chính quyền Đông Đức đã phải đầu hàng trước áp lực của công chúng, bằng cách cho phép các công dân Đông Đức được vào Tây Bá Linh và Tây Đức trực tiếp, thông qua các trạm biên giới. Một năm sau ngày bức tường Bá Linh sụp đổ, nước Đức chính thức tuyên bố thống nhất tính từ ngày 3/10/1990. Với ước muốn được sống tự do, mỗi người dân Đông Đức đã vươn bàn tay nhỏ bé của mình đồng loạt góp sức xô đổ bức tường ô nhục để xây dựng lại đất nước của họ.
 
Tuy thống nhất về mặt địa lý và con người, gánh nặng của một nửa quốc gia suy sụp sau gần nửa thế kỷ theo đuổi mô hình kinh tế XHCN không hề nhỏ. Khi sáp nhập vào Tây Đức, GDP của Đông Đức chỉ góp được 7% của cả nước Đức so với 93% của Tây Đức dù cho họ chiếm khoảng 1/3 dân số cả nước. Người dân Tây Đức đã phải đóng góp rất nhiều để có một nước Đức cường thịnh và phát triển như ngày hôm nay. Mỗi người dân Tây Đức, đi làm phải đóng 7% tiền lương của mình vào một quỹ gọi là “quỹ xây dựng lại Đông Đức”. Về mặt tinh thần “quỹ xây dựng lại Đông Đức” mang tính dân tộc rất cao, nó thể hiện sự đùm bọc và chữa lành những vết thương chia cắt. Mặc dù phải cưu mang thêm 18 triệu người Đông Đức, hầu hết người dân Tây Đức đều hài lòng với các chính sách của chính phủ và cùng chia sẻ niềm hãnh diện vì một nước Đức thống nhất.
———-
 

Thế nào là một đời sống đạo đức ?

       IMG_455642211858819                                                                                                                                                          Thích Như Điển

Ở bất cứ một trường học nào của các quốc gia trên thế giới cũng đều có dạy môn nầy. Ngày xưa tại Việt Nam ở bậc tiểu học có dạy môn: Công Dân Giáo Dục hay Đức Dục. Cứ mỗi sáng Thầy Cô giáo trước khi dò bài học sinh đều viết lên bảng đen một câu cách ngôn hay tục ngữ. Ví dụ:

  • Tiên học lễ, hậu học văn
  • Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây
  • Nhơn bất học bất tri lý, ngọc bất trác bất thành khí, ấu bất học lão hà vi?
  • Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn v.v…

Còn rất nhiều câu rất hay, tuy ngắn gọn; nhưng nội dung rất súc tích, nhằm trưởng dưỡng cái tâm của đứa bé khi bước vào lớp; khi trở về nhà phải chào Thầy như thế nào, phải thưa cha mẹ như thế nào trước khi đến trường và sau khi từ trường về v.v… Người ta trước khi học chữ, phải học lễ nghĩa. Đó là cái đạo làm người ngày xưa. Bây giờ có thể khác. Câu “trọng Thầy mới được làm Thầy” ở nhà trường ít có thực hiện. Học trò bây giờ xem ông Thầy nhiều lúc chẳng ra gì cả. Còn Cô giáo thì khổ tâm hơn. Nếu bị học trò ghẹo, nhiều lúc bỏ dạy. Cái “học đường là lò đúc nhân tài” ấy ngày nay nó biến thái rất nhiều rồi.

Ở bậc Trung Học người ta vẫn còn dạy môn Công Dân Giáo Dục và Đạo Đức Học. Ở Nhật ngay cả khi lên bậc Đại Học vẫn còn học môn học đạo đức của người lớn để ứng dụng vào đời khi phải cần xử sự với thế nhân. Khi nhỏ nếu không đi học, lớn lên chẳng biết làm gì là một câu châm ngôn rất hay, để khuyên rằng chúng ta ai ai cũng phải đi học và “không Thầy đố mầy làm nên” là lẽ đương nhiên. Cái gì không có Thầy mà mình làm được thì ở đây có 2 lối giải thích :

  • Một là làm bậy, không đâu vào đâu cả
  • Hai là mình quá thông minh biệt chúng, không cần Thầy mình vẫn có thể hơn người.

Do đây mà có người thường hay nói: Phật tại tâm, đâu cần phải đi chùa mới có Phật. Câu nói ấy đúng chứ không sai; nhưng cái tâm nầy theo Chu Tử nói: “nó lại bềnh bồng” khó giữ cho cái tâm nầy ở nhà cho yên tĩnh để trở thành Phật được. Đây là lý do mà đứa bé cần phải đi đến trường và cả người lớn cũng phải như thế nữa. Người tín đồ phải đi chùa. Dĩ nhiên đối với Phật Giáo không bắt buộc; nhưng nếu để được đủ tư cách thì phải thêm điều kiện ắt có phía trước là vậy. Thử hỏi ai trong chúng ta có ai không đi học mà biết chữ đâu? Và có ai trong các vị Tổ Sư, các vị A La Hán, các vị Bồ Tát, các vị Phật không hạ thủ công phu, không tu hành nghiêm mật và thành được những bậc khó có trong đời ấy đâu?

Con người mà không có học là không biết cái đạo lý trong cuộc đời. Cái lý đó không phải là cái lý của kẻ mạnh được yếu thua, mà cái đạo lý, cái luân lý, cái thuần phong mỹ tục. Cái ấy đẹp đẽ như bông hoa, như mùi hương là những thứ mà nó thể hiện trọn vẹn ở một cái thân cây sần sùi để mang hương sắc đến tô điểm cho đời. Còn ta cũng vậy, tuy rằng sống trong thế trần nhiều nhiễu nhương nầy; nhưng cũng có thể mang cái học, cái đẹp của đời của đạo để dâng hiến cho đời thì cuộc đời kia mới thêm tươi mát chứ? Trong kinh có câu rằng:
“Nhứt nhơn tác phước thiên nhân hưởng
Độc thọ khai khoa vạn thọ hương”

Nghĩa là:

Một người làm phước ngàn người hưởng
Một cây trổ hoa mười ngàn cây được thơm lây.
Đó là cây phước đức, cây nhân nghĩa, cây hồng, cây thược dược, cây vạn thọ, cây dạ lý hương, cây hoa quỳnh v.v…

Ngọc dầu quý đến đâu mà không giũa không mài nó cũng không thể sáng và đẹp được. Phải siêng năng, phải dụng công. Cũng như thế đó tâm ta dầu là có Phật tánh đi nữa cũng phải luôn luôn lau chùi thì tánh Phật kia mới sáng. Ta và Phật khác nhau rất nhiều; nhưng giống nhau ở tánh Phật. Cũng giống như sóng và nước không giống nhau; nhưng giống nhau ở tánh ướt. Lửa và củi không giống nhau; nhưng giống nhau ở tánh nóng. Nếu không có củi thì lửa sẽ không cháy; nếu lửa không có thì củi cũng trơ trọi một mình. Trong cái nầy nó chứa cái kia và trong cái kia nó chứa cái nọ. Không có vật nào là tự sinh và chẳng có vật nào sống độc lập cả. Ta không thể sống một mình trong thế gian nầy được. Dầu là kẻ sinh ra sống trong rừng không cần đến quần áo để mặc; nhưng phải cần nước để uống, trái cây và thú rừng để ăn. Nếu không thì sẽ chết và một cái gọi là cá thể độc lập ấy nó chẳng có ý nghĩa gì cả với hệ luận dây chuyền của cuộc sống nầy.

Ngôn ngữ chữ Hán nó biểu hiện trọn vẹn được những định nghĩa nầy nên tại đây chúng ta có thể nghiên cứu tìm hiểu đến ý nghĩa của 2 chữ Đạo (道) và chữ Đức (德).

Chữ Đạo chỉ có 2 bộ ghép lại. Đó là bộ Sước (过) và bộ Thủ (首). Bộ Sước (过) có nghĩa là chợt đi, chợt dừng lại, ý nói có lúc di động, có lúc đứng lại. Bộ Thủ (首) có nghĩa là: đầu, như chúa, chức Tổng Thống, Thủ Tướng, kẻ Trùm trưởng, trước nhất, một thiên bài (thơ). Định nghĩa chung chữ Đạo (道) là con đường cái thẳng, một đạo lý mà ai cũng phải noi theo cái lẽ nhất định ấy.

Đức (德) có bộ sách (彳) và 4 chữ sau là thập (十), tứ (四), nhứt (一) và tâm (心). Bộ sách (彳) có nghĩa là bước ngắn, bước chân trái gọi là sách, bước chân phải gọi là xúc. Chữ thập (十) là mười; chữ tứ (四) là bốn; chữ nhứt (一) là một và chữ tâm (心) là tim, là chỗ nghĩ ngợi, tư tưởng, trong 28 sao có một vì sao tâm và cũng có nghĩa là cái gai nữa. Chữ tâm (心) nầy mới là mấu chốt của vấn đề. Cũng cái tâm ấy nó thành Phật thành Tiên, mà cũng cái tâm ấy làm cho con người bị đọa lạc trầm luân khổ ải. Như vậy chữ Đức (德) có nghĩa là đạo đức là cái đạo để lập thân, đức hạnh, thiện, cái khí tốt. Ngày xưa khi còn nhỏ để học thuộc chữ nầy cho dễ dàng chúng tôi đặt thành bài thơ 2 câu để diễn tả chữ ấy thì sẽ thuộc ngay và không bao giờ quên được.

Con cu nó đậu nhành mè (bộ sách)
Chữ thập (十) chữ tứ (四) nhứt (一) đè chữ tâm (心).

Đó là chữ Đức. Như vậy Đạo Đức có nghĩa chung là con đường đạo lý mà con người muốn lập thân phải noi theo cái lẽ nhất định ấy. Đó là Đạo Đức (道 德). Vậy thì ai muốn lập thân, muốn làm lớn, muốn trở thành kẻ dẫn đầu chúng sanh, cầm đầu thiên hạ thì không thể không đi trên con đường đạo đức ấy được. Mà cái đạo đức ấy ngày xưa phải là: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Bây giờ thì ngược lại thân không tu, gia không tề mà lo đi trị quốc và bình thiên hạ trước. Cho nên xã hội nó đảo điên, gia đình ly tán là phải.

Nếu Phật không chế ra giới luật thì Tăng Ni, Phật Tử ngày nay lấy đâu mà tu hành, mà đầu tiên bản thân của Ngài phải là người mô phạm trước. Ngài đã là một bậc Thầy của Trời và Người rồi đó, ai ai cũng đều quy ngưỡng; nhưng Ngài luôn khuyên chúng ta rằng: nên nương vào ngón tay để thấy mặt trăng, chứ đừng lầm ngón tay là mặt trăng. Mặt trăng mới là chân lý, không thay đổi. Còn ngón tay chỉ là phương tiện, có thể xê dịch qua lại, cho nên chớ lầm. Bởi vậy Phật dạy rằng:

Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.

Nghĩa là:

Kẻ nào dùng hình tướng để thấy ta
Dùng âm thanh để cầu ta
Kẻ ấy hành tà đạo
Không bao giờ thấy được thực tướng của Như Lai.

Xem đó thì phương tiện và mục đích nó khác nhau nhiều lắm. Đến đích rồi thì bỏ phương tiện, không cần nhắc nhở đến nữa; nếu chỉ cố chấp vào phương tiện thì mình vẫn bị quay cuồng trong sanh tử, chứ khó thoát khỏi bến mê. Bởi vậy mà Lục Tổ Huệ Năng đi đốn củi trong rừng để kiếm tiền nuôi mẹ già người họ Lư, khi nghe đến câu: “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang liền ngộ ngay là vậy. Nghĩa là “nên sanh cái tâm nầy vào nơi không có chỗ”. Nơi không có chỗ là nơi nào? Là nơi Niết Bàn Diệu Tâm, là nơi tu nhi vô tu, hành nhi vô hành và chứng nhi vô chứng đó. Đó mới thật là đạo đức chân thật của cuộc đời.

Cái đạo đức của một con bò, con ngựa là nhờ hàng rào kẽm gai rào chung quanh thửa ruộng cho nên nó không ăn lúa và hoa mầu của những đám đất chung quanh. Cái đạo đức của con ngựa, con voi là có nhờ dây cương và người nài. Còn cái đạo đức của con kiến là gì? Nó biết thương đồng loại nó lắm đấy. Dĩ nhiên là chỉ loài kiến của nó mà thôi, chứ loài kiến khác là nó cắn liền. Tôi ở Tu Viện Đa Bảo nầy trên núi rừng có cơ hội để xem những con kiến nó làm tổ, chuyên chở đất và tìm thức ăn cho mình thì mới thấy cái ý chí và cái đạo đức của nó cũng cao lắm đấy. Khi chúng tha được con mồi thì chúng cùng khiêng với nhau, khi vào hang chẳng biết thế nào, chắc chắn là chúng ăn chung với nhau chứ; nhưng được một cái là nó chung sức chung lòng. Còn con người thì chắc là khác? Khi được miếng mồi ngon và lớn như thế đa phần chỉ muốn giữ riêng cho mình. Rồi tôi quan sát chúng chuyên chở đất từ dưới lên trên miệng hang. Con nào cũng siêng năng chuyên chở, chẳng có con nào nạnh hẹ với nhau cả. Chỉ có một bầy kiến nhỏ vậy thôi mà nó un thành một ụ cao giữa sân như vậy, thử hỏi nó siêng năng biết là dường nào?

Khi chúng tôi về ở và nhập thất nơi đây lúc nào cũng thấy những con chim lạ, con két, con sáo chúng nó luôn luôn đi có bầy và ít nhất cũng là 2 con chứ ít đi một mình. Khi chúng thấy mình thân cận thì nó gần gũi đến xin ăn, ca hót cho mình nghe. Lúc ấy người và vật không còn nghi kỵ, sợ hãi với nhau nữa. Nghĩa là đã có một lòng tin là những người nầy không bắt nó làm thịt.

Mỗi chiều khi ăn cơm xong chúng tôi đem thức ăn thừa ra để ngoài gốc cây trong rừng cho thú vật. Mỗi sáng ra chúng tôi quan sát thấy chúng ăn sạch nhẵn và rất gọn gàng. Thức ăn nhiều lắm; nếu một con ăn thì con vật ấy ắt phải lớn lắm mới ăn hết đồ ăn như vậy. Nhiều lúc tôi nghĩ là con beo rừng, vì thấy dấu chân lưu lại lớn lắm; nhưng Hòa Thượng Bảo Lạc và Thầy Phổ Huân thì bảo là con Kỳ Đà. Mà con Kỳ Đà và rắn mối ở xứ nầy cũng rất lớn. Có lần tôi bắt gặp ở chùa Pháp Bảo và Thầy Phổ Huân thấy nó ở Đa Bảo nầy dài cũng 8 tấc đến một thước là ít. Nơi đây có rất nhiều giống vật lạ. Chúng còn hồn nhiên với thiên nhiên lắm. Không biết một mai đây khi con người giành hết đất của chúng rồi, thì chúng ở nơi đâu và lấy gì để ăn mà nuôi thân? Các nhà sinh vật học nói rằng ngày xưa những con khủng long rất lớn, như bây giờ chúng ta còn thấy những bộ xương của chúng trong Viện Bảo Tàng vậy; nhưng trải qua mấy triệu năm chúng biến thể để trở thành con rùa và con cá sấu, rất nhỏ, không to lớn như ngày xưa nữa. Xứ Úc nầy cũng có những con vật lạ lùng như thế. Bởi vậy con Kanguru tiếng Tàu kêu là con Đại Thử tức là cái túi lớn, chứ không có chữ khác để dùng khi gọi con vật nầy bằng tiếng Tàu.

Còn đạo đức của người Phật Tử là gì ?

Khi trở thành một người Phật Tử thì nên quy y Tam Bảo và giữ ngũ giới. Đây là nền tảng của một con người có đạo đức. Ví dụ:
Giới thứ nhất ta không giết hại chúng sanh mà còn mua những con vật, con cá để phóng sanh. Hoặc giả ta ăn chay cốt giúp cho lòng từ bi tăng trưởng. Đó là cái đạo đức, cái tình thương đối với muôn loài.

Giới thứ hai không trộm cướp như vàng bạc của quý báu, hoặc nhỏ nhặt như cây kim sợi chỉ, người ta không cho thì mình không lấy. Đó là cái đạo đức ngay thẳng của con người. Hoặc giả đi làm việc không trễ giờ, không cân non nói già v.v… đều là những căn bản đạo đức của con người.

Không tà dâm cũng thế. Chính mình muốn có hạnh phúc thì mình không thể và không nên phá hạnh phúc của kẻ khác để mình được vui. Mình phải đóng vai mình là người kia thì thử hỏi sự khổ sở phải chịu đựng biết là dường nào. Nhưng nhân quả không lâu, mình sẽ gặp lại là nhà mình, con cái mình, vợ mình sẽ có tâm lang chạ, làm cho gia đình ly tán, tình nghĩa vợ chồng sẽ đổ vỡ.

Giới thứ tư không được nói dối cũng thế. Nếu nói chỉ lợi cho mình mà hại người thì không nên nói; nhưng đa phần ai cũng muốn mình đúng chứ đâu có ai nghĩ rằng mình nói sai hay phần sai phải về mình; nhưng đã gọi là cán cân công lý, tuy vô hình nhưng nó cũng tự động xê dịch để cho tương đương với lẽ phải. Khi mình hại người, trước sau gì cũng sẽ có kẻ hại mình. Do vậy mà làm hoặc nói việc gì cũng nên thận trọng để ý.

Giới thứ năm là không được uống rượu cũng thế. Tuy rượu không phải là sát sanh, trộm cắp, tà dâm; nhưng rượu là nguyên nhân gây ra không biết bao nhiêu là tội lỗi khác. Từ việc say sưa mà nhận định sẽ sai lầm và từ sai lầm nầy sẽ kéo sang sai lầm khác; khiến cho gia đình ly tán. Tình nghĩa vợ chồng không còn đằm thắm như lúc ban đầu nữa.

Đây là cái hàng rào đạo đức của con người. Nếu ai giữ tròn nhân cách ấy thì đời đời qua lại chốn nhân thiên sớm thành Phật quả. Nếu không làm được như thế cũng chẳng ai nhân danh là gì để bắt mình phải vào địa ngục, mà chính mình phải vào để trả những nợ xưa mình đã gây và như thế vòng luân hồi sanh tử tử sanh vẫn luôn luôn còn bám sát theo đuổi mãi không cùng.

Đối với người xuất gia giới luật còn nhiều hơn thế nữa. Đây cũng là những giá trị đạo đức cần phải có để giữ gìn và trở thành kẻ mô phạm cho trời người. Nếu không làm như thế, người xuất gia cũng đâu khác gì một người bình thường; do vậy cần phải đứng đắn, là một nhà mô phạm để hướng dẫn mọi người thì phải đi thẳng theo một đạo lý đã được vạch ra như thế. Người xuất gia thời Đức Phật cũng vậy đã có nhiều người làm việc sai trái vì nghiệp duyên và ngày nay cũng thế; nhưng đã là con người, chưa là thánh nhân, do vậy chúng ta không thể đúng hoàn toàn được. Bởi vậy Đức Phật dạy rằng: “Trên thế gian nầy chỉ có 2 hạng người đáng để ý. Đó là hạng người không bao giờ gây ra lỗi lầm và hạng người biết lỗi lầm của mình rồi ăn năn sám hối”. Hạng người thứ nhất chắc chắn không phải là chúng ta rồi. Còn hạng người thứ hai xem ra thử có mặt chúng ta nơi đó không? Có lẽ thỉnh thoảng có mà cũng thỉnh thoảng không. Vì chơn tâm của chúng ta đi dạo chơi nơi khác. Do vậy mà trần cảnh mới dấy động lên những si mê và ngã chấp về còn mất, tốt xấu, có không, hơn thua, lợi danh v.v…

Tôi được nghe 4 câu hò xứ Huế thấy hay hay và ý nghĩa vô cùng:

Trăm năm trước thì ta chẳng có
Trăm năm sau có cũng như không
Cuộc đời sắc sắc không không
Trăm năm chỉ một tấm lòng Từ Bi.

Đúng là như vậy, khi cha mẹ mình chưa sinh ra mình, mình đâu có biết mình mặt mũi là ai. Rồi trăm năm sau nữa, khi mà đã thi thố chiến đấu với cuộc đời nầy bằng danh, bằng lợi, bằng tiền, bằng tình; nhưng cuối cùng rồi cũng 3 tấc đất để vùi lấp xác thân ấy thôi. Đâu còn ai nhắc lại mình của trăm năm trước nữa? Đúng là cuộc đời nầy nó như thế. Có lúc nầy, có lúc kia, lúc còn lúc mất mà những lúc như thế đúng là sắc sắc không không chứ gì? Ngày qua là tỷ phú mà ngày nay trắng tay và ngày mai sẽ được thêm hạnh phúc, ngày mốt lại mất đi, chẳng có cái gì chắc thật cả.

Mến nhau, thương nhau chỉ có tấm lòng mà thôi. Tấm lòng ấy chính là đạo đức của con người đó. Tấm lòng ấy là: giàu không đổi bạn, sang không đổi vợ. Bao giờ cũng vậy, núi sông, non nước, tình người. Dẫu cho có trở thành là người gì đi chăng nữa thì trước sau vẫn vậy. Có làm quan, làm tướng, làm Tổng Thống, làm Vua thì căn bản vẫn là con người và con người đó phải có đạo đức thì thiên hạ mới noi theo; nếu không, chưa chắc gì mãi bền vững.

Cái đạo đức ấy được biểu hiện qua cách chăn dân trị nước của vua Lê Lợi qua lời khuyên của Quân sư Nguyễn Trãi là: “Dân giống như nước. Kẻ lãnh đạo giống như thuyền. Chính nước đó sẽ chở thuyền đi đến nơi đến chốn và chính nước đó sẽ lật thuyền”. Mà đúng vậy, khi Lê Lợi lên làm vua sau 17 năm nằm gai nếm mật để chiến đấu với quân Minh vào đầu thế kỷ thứ 15, ông ta phải ý thức rõ ràng cái đạo đức của Vua tôi là: “Dân vi quý, Xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Nghĩa là, có dân rồi mới có vua, cho nên phải coi dân là quý. Không coi dân là trọng mà xem dân như con mình nên gọi là quý. Sau đó mới đến sơn hà xã tắc. Dân còn đói rách, đất nước làm sao an vui? Do vậy mà con người là trên hết. Ông vua nào, chính quyền nào không lo cho con người, tức ông vua đó và chính quyền đó sẽ thất bại.

Rõ ràng ông vua sẽ là địa vị sau cùng cho nên gọi là quân vi khinh; chứ không phải dân vi khinh. Sau khi nắm quyền bính trong tay rồi và nhất là có tiền bạc, thế lực to lớn chẳng ai mà muốn từ bỏ hết. Xưa nay nhân loại đều như thế cả, mà kẻ nào dám từ bỏ ngai vàng như Đức Phật, như vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Lý Huệ Tông v.v… để đi xuất gia học đạo thì kẻ đó ta phải cúi đầu bái phục, chẳng có lời lẽ ý tứ nào để biện bạch hơn nữa. Cái mà người ta đang có mà người ta từ bỏ mới là khó, chứ cái chưa có, người ta đi tìm cho nó có, nó không phải là điều khó. Có và không, không và có vẫn là những sự kiện hiển nhiên rõ ràng trong cuộc đời; nhưng mấy ai chấp nhận nó một cách dễ dàng?

Ngạn ngữ Ả Rập có câu rằng: “Khi tôi sinh ra trong cuộc đời nầy mọi người đều cười để mừng tôi ra đời trong khi tôi lại khóc, để rồi suốt khoảng thời gian 30 năm, 50 năm hay dẫu 100 năm, một ngày nào đó tôi phải ra đi với trạng thái hồn nhiên buông xuôi hai tay về nơi chín suối, thì mọi người chung quanh tôi đều khóc”. Thế là cuộc đời bắt đầu bằng tiếng khóc, rồi nụ cười và phải làm sao đó để kết cuộc mình tự mỉm cười với mình lúc ra đi để mọi người chung quanh mình khóc, nhằm tiễn đưa mình qua bên kia bờ của cuộc sống.

Đó là cuộc đời; nhưng mấy ai biết rằng khi đứa trẻ sinh ra chưa biết gì mà đã biết tham đâu. Đó là sự thật. Vì biểu hiện của đứa trẻ là nắm bàn tay lại, chứ đâu có đứa trẻ nào khi sinh ra lại xòe bàn tay cho cha mẹ hay mọi người xem đâu. Nếu có, thì đứa bé ấy sẽ là một Thánh Nhân. Vì mới sinh ra đã biết buông bỏ tất cả rồi.

Từ thời vua Nghiêu vua Thuấn bên Trung Hoa cách đây 3, 4 ngàn năm về trước cũng như thế. Các ông vua nầy là những ông vua minh quân hiền đức; nhưng con cái của các ông không có người nào xứng đáng để truyền, do đó ông đã truyền ngôi cho người hiền, người có đạo đức, chứ không phải là con của mình. Đó là con người có cái đức để trị dân và cùng thời đó có câu chuyện của Hứa Do, Sào Phủ cũng vậy. Một ông vì chữ Hiếu mà vào rừng ở ẩn không chịu ra làm quan, khiến cho kẻ có quyền lực phải đốt rừng, ông Sào Phủ đang làm tổ ở trên cây phải chịu chết trong rừng để tròn hiếu đạo chứ chẳng nhảy xuống khỏi cây. Ông Bá Nha Tử Kỳ cũng thế. Ông Tử Kỳ đang cho trâu uống nước ở hạ lưu của sông, khi nghe ông Bá Nha bảo rằng: Có người mời Tử Kỳ ra làm quan thì Tử Kỳ lên bên trên dòng sông để rửa cho lỗ tai không muốn nghe những điều thị phi ấy nữa. Chốn triều đình là gì, chẳng phải là nơi luồn cúi? Nơi đó có điện ngọc, ngai vàng mà chính nơi đó nhiều khi gian thần, nịnh thần nhiều hơn trung thần. Ai đóng vai là kẻ trung thần để giữ tròn được tiết tháo và đạo đức của kẻ sĩ?

Ngày xưa khi mà Lê Mạt Nguyễn Sơ, bà Huyện Thanh Quan, cụ Nguyễn Du đã đau đớn biết bao khi thấy nước nhà tan nát, nhân tâm ly tán, đạo đức suy đồi nên mới có bài Thăng Long Thành Hoài Cổ hay một tác phẩm đặc sắc của Truyện Kiều qua tác phẩm Thanh Tâm Tài Tử truyện mà với ngòi bút thần kỳ của Cụ Nguyễn Du, đã đem tâm sự của mình gởi gấm vào tác phẩm nầy và cũng do đã đọc được mấy ngàn lần bộ kinh Kim Cang mới rõ được hết chân lý của vũ trụ vạn hữu và mới sáng tác được một tác phẩm giá trị đã hơn 200 năm rồi mà âm hưởng vẫn còn đâu đây như cái đạo đức làm người ấy vẫn mãi còn trong tâm khảm của mọi người con dân nước Việt mình.

Một Đặng Trần Thường, một Ngô Thời Nhậm ở vào thời điểm nhà Nguyễn Tây Sơn đã bại, nhà Nguyễn Gia Long đã thắng và cũng đã khẳng khái để giữ được cái tiết tháo, cái đạo đức của mình khi làm tướng và đã đối đáp như sau:

Ai công hầu, ai khanh tướng; trong trần ai, ai dễ biết ai
Để đối lại rằng:
Thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.

Hoặc giả Trần Bình Trọng đời nhà Trần, cách đây cả 800 năm, khi ông bị quân Nguyên Mông bắt thì ông có trả lời một câu rất khẳng khái rằng: “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” đã là một bài học đạo đức đáng giá hơn ngàn vàng. Cũng chừng 45 năm trước, khi tôi còn ngồi ghế tại trường Tiểu Học Xuyên Mỹ, Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam, đã học thuộc lòng bài nầy và xin chép lại đây để hầu quý vị. Bài học ấy có tên là Trần Bình Trọng.

Trần Bình Trọng anh hùng ngàn thu trước
Đem tấm thân bảy thước chống sơn hà
Mãi lo đền nợ nước với tình nhà
Trong tâm khảm nặng tình yêu Tổ Quốc
Nhưng than ôi tài trai dầu thao lược
Hùm thiêng kia không địch một bầy hồ
Vì sa cơ nên bị bắt cầm tù
Tan mộng đẹp anh hùng đành thất thế
Lũ giặc thấy người tài nên rất nể
Đem quan sang tước trọng dụ Ngài hàng
Quân bây lầm dầu dâng cả Ngai vàng
Khó lay chuyển vì lòng ta thờ cố quốc
Hễ bắt được ta thôi chớ nói gì lâu
Cứ đem chém ta không hề than tiếc
Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.

Đó là cái dũng của một vị tướng nơi sa trường của ngày xưa chứ không phải “được làm vua, thua làm giặc” như bây giờ. Bây giờ tuy sống trong một nước có nhiều văn minh về vật chất hơn ngày xưa; nhưng các dũng khí, cái tiết tháo ấy hầu như không còn nữa. Khi được khi thua vẫn là chuyện bình thường trong cuộc đời, đâu có gì phải hận trời hận người mà sinh ra một loại giặc để quấy phá thiên hạ? Phải có cái Đức của Thánh Nhân, cái Đạo của con người bình thường thì mới soi rọi nội tâm của mình được. Nếu không, chúng ta cũng chỉ là những người “tham sanh, húy tử” – nghĩa là tham sống, sợ chết mà thôi.

Con người ai chẳng biết sự sống là quý; nhưng phải sống như thế nào mới là điều đáng quý. Nếu sống chỉ để mà sống và trở thành chật đất trên quả địa cầu nầy thì quả thật sự sống ấy nó không có giá trị đạo đức và nếu có kéo dài sự sống ấy ra bao lâu đi chăng nữa, thì cũng chỉ để cho thế nhân nguyền rủa mà thôi.

Gương kim cổ vẫn còn đó, mong rằng chúng ta hãy tự rút ra những bài học đạo đức ngày xưa để làm kim chỉ Nam trong cuộc sống của mình.

Làm Thế Nào Để Trở Thành Một Người Tốt

Thích Như Điển


Vua Gia Long đã khai thác biển Đông như thế nào?

Gia Long là vị vua đầu tiên của vương triều Nguyễn – ngay khi lên ngôi, đã thể hiện một “tầm nhìn xa trộng rộng” đối với chủ quyền biển đảo – phần lãnh thổ không thể tách rời với đất liền của Việt Nam.

 

vua-gia-long
Sử sách chép rằng, trong 18 năm trị vì (1802 – 1820), hoàng đế Gia Long đã ba lần phái quân ra biển đảo để khẳng định chủ quyền của vương triều đối với các đảo và quần đảo, trong đó có quần đảo Hoàng Sa.

Lập lại đội Hoàng Sa

Tháng 7 năm Quý hợi ( 1803), vua Gia Long đã cho lập lại đội Hoàng Sa. Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 22, trang 2, năm Gia Long thứ 2 (1803) chép: “Tháng 7, Lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa”.

Trước đó, theo hầu hết các tài liệu cổ có ghi chép về đội Hoàng Sa, hải đội này bắt đầu xuất hiện từ thời những chúa Nguyễn đầu tiên đặt chân đến xứ Đàng Trong. Theo TS Nguyễn Nhã, chúng ta có cơ sở để kết luận đội Hoàng Sa ra đời sớm nhất từ thời chúa Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), hay chắc chắn là từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), bởi chính vào thời này, các thuyền của đội Hoàng Sa mới đi vào cửa Eo (Thuận An) và nộp sản vật tại chính dinh Phú Xuân. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đội Hoàng Sa vẫn tồn tại và hoạt động dưới nhiều triều đại khác nhau.

Chính sử triều Nguyễn ghi rằng, đội Hoàng Sa là một tổ chức khá đặc biệt trong thời kỳ các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đó là một tổ chức vừa mang tính dân sự vừa mang tính quân sự, vừa tư nhân vừa Nhà nước; vừa có chức năng kinh tế vừa có chức năng quản lý nhà nước trên một vùng rộng lớn của Biển Đông thời ấy.

Hàng năm, đội Hoàng Sa bắt đầu đi biển từ tháng 3 âm lịch đến tháng 8 âm lịch thì về; thực hiện các nhiệm vụ được triều đình giao phó: thu lượm các sản vật từ các tàu đắm, các hải sản quý từ vùng biển phía bắc quần đảo Hoàng Sa, kiêm quản trông coi các đội khác cùng làm nhiệm vụ nhưng ở khu vực khác như đội Bắc Hải ở phía nam (tức quần đảo Trường Sa). Về sau, đội còn đảm trách thêm việc đi xem xét, đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ vùng quần đảo Hoàng Sa; hay do thám, canh giữ ngoài biển, trình báo về các bọn cướp biển (từ năm Gia Long)…

“Hoạt động của đội Hoàng Sa tới các đảo phía bắc gần phủ Liêm Châu, Hải Nam (Trung Quốc), phía nam tiếp tới Côn Lôn, Hà Tiên. Dù chính đội Hoàng Sa không đủ lực lượng tự mình đi khắp nơi, song lại kiêm quản các đội khác nên phạm vi hoạt động của các đội rất rộng, khắp các đảo trên biển Đông chạy dài ngoài khơi dọc các tỉnh miền Trung, từ phía tây nam đảo Hải Nam xuống tới vùng Trường Sa hiện nay. Đội Hoàng Sa sử dụng một loại thuyền buồm nhẹ và nhanh nên dễ dàng né tránh các đá san hô cũng như dễ dàng cập được vào bờ các đảo san hô như ở Hoàng Sa và cũng thích hợp với hoàn cảnh của dân chài vùng biển Sa Kỳ, Cù lao Ré”, TS Nguyễn Nhã cho biết.

Lần đầu tiên xem xét và đo đạc thủy trình ở Hoàng Sa

Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 50, trang 6, năm Gia Long thứ 14 (1815) chép: “Tháng 2, sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển”.

Năm 1816, Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 52, ghi rằng vua Gia Long đã bắt đầu cho thủy binh đi công tác Hoàng Sa cùng với đội dân binh ở Quảng Ngãi, để xem xét và đo đạc thủy trình. Dân phu cùng đi chính là những dân phu giỏi hải trình đi Hoàng Sa. Và nguyên nhân vua Gia Long bắt đầu cho thuỷ binh đi Hoàng Sa vì có các sĩ quan người Phương Tây trong thời chiến tranh với Tây Sơn rất quan tâm đến vấn đề quản lý biển Đông.

Những người Pháp cộng tác với vua Gia Long, gồm: Jean Baptiste Chaigneau, Giám mục Taberd đã viết rất rõ trong các tư liệu cổ phương Tây, khẳng định hoàng đế Gia Long đã chính thức xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa.

Cụ thể, Chaigneau đã viết trong hồi ký Le mémoire sur la Cochichine: “Xứ Cochinchine, mà Quốc vương ngày nay đã xưng đế hiệu, gồm có xứ Đàng Trong, Bắc Hà (Tonquin)… vài đảo gần bờ biển, có dân cư, và quần đảo Paracels, gồm có nhiều đảo và mỏm đá thiếu dân. Vào năm 1816, đương kim hoàng đế đã chiếm hữu quần đảo ấy”.

Giám mục Taberd cũng viết trong cuốn Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutume: “Chúng tôi không đi vào việc kê khai những hòn đảo chính yếu của xứ Cochinchine. Chúng tôi chỉ xin lưu ý rằng từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracels mà người Việt gọi là Cát Vàng (Hoàng Sa), gồm rất nhiều hòn đảo chằng chịt với nhau, lởm chởm những đá nhô lên giữa những bãi cát, làm cho những kẻ đi biển rất e ngại – đã được chiếm cứ bởi người Việt xứ Đàng Trong…

… Chúng tôi không rõ họ có thiết lập một cơ sở nào tại đó không, nhưng có điều chúng tôi biết chắc là Hoàng đế Gia Long đã chủ tâm thêm cái đóa hoa kỳ lạ đó vào vương miện của Ngài, vì vậy mà Ngài xét thấy đúng lúc phải thân chinh vượt biển để tiếp thâu quần đảo Hoàng Sa và chính là vào năm 1816, Ngài đã long trọng treo tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong”.

Chưa hết, Gutzlaff năm 1849 đã cho biết, chính quyền Việt Nam thời Gia Long đã thiết lập một trại quân nhỏ để thu thuế và bảo trợ người đánh cá Việt Nam.

Có thể nói, chính hoạt động lần đầu tiên xem xét và đo đạc thủy trình ở Hoàng Sa của thủy quân dưới triều Gia Long là dấu mốc rất quan trọng về việc tái xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này. Sang thời nhà Nguyễn, nhất là vua Minh Mạng, thủy quân hàng năm đều đặn ra Hoàng Sa, Trường Sa đi vãng thám, đo đạc thủy trình, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền và thực hiện các hoạt động khác…

1. Trước khi lên ngôi hoàng đế 1802, Nguyễn Ánh cũng đã được anh em Dayot giúp đo đạc hải trình ở biển Đông trong đó có vùng quần đảo Trường Sa hay Hoàng Sa nói chung.

2. Phạm Quang Ảnh hiện được thờ tại từ đường tộc họ Phạm (Quang) tại thôn Đông, xã Lý Vĩnh, xưa là phường hay hộ An Vĩnh tại huyện đảo Lý Sơn (Cù Lao Ré).


‘Voi lửa’ – cỗ ‘xe tăng’ khủng khiếp của Hoàng đế Quang Trung

Từ thời Hai Bà Trưng cho đến thời của Quang Trung – Nguyễn Huệ, một cuộc cách mạng đã diễn ra trong nghệ thuật sử dụng voi chiến của người Việt.

 

Uy lực của những chiến binh khổng lồ

1-8 hao khi tay son 3

Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, voi chiến luôn là đơn vị chiến đấu đặc biệt được các triều đại sử dụng trong chiến trận. Những con vật khổng lồ này vừa là phương tiện vận chuyển quân nhu, lương thực trong các cuộc hành quân, vừa là một chiến binh đầy dũng mãnh trên chiến trận.

Được điều khiển bởi nài voi, voi chiến có thể trực tiếp tiêu diệt địch bằng cách dùng ngà, vòi, chân làm vũ khí. Những người lính trên mình voi có lợi thế về độ cao, tầm quan sát tốt, tỏ ra rất lợi hại với các mũi giáo dài và các loại vũ khí tầm xa như cung, nỏ. Đặc biệt, voi còn là khắc tinh của kỵ binh bởi loài ngựa có nỗi sợ hãi bản năng với chúng.

Trong các cuộc đụng độ với những triều đại phương Bắc, voi chiến của người Việt đã nhiều lần chứng tỏ ưu thế của mình, khiến đối phương khiếp sợ.

Kỹ thuật sử dụng voi chiến đã xuất hiện tại Việt Nam từ rất sớm. Nhiều nguồn sử liệu ghi nhận hình ảnh Hai Bà Trưng sử dụng voi chiến để đối đầu với quân Hán trong cuộc khởi nghĩa năm 40 sau công nguyên. Hình ảnh tương tự cũng được ghi nhận với Bà Triệu trong cuộc khởi nghĩa chống quân Ngô. Có khả năng, voi chiến đã được sử dụng từ thời Hùng Vương  dựng nước.

Vào thời kỳ sau này, voi chiến đã lập chiến công trong trận đánh thành Ung Châu ở nước Tống (1075) của quân đội Lý Thường Kiệt. Sử Trung Quốc thuật lại, khi tướng Quách Quỳ của nhà Tống tiến tới huyện Quang Lang thì quân tiên phong nhà Lý do Thân Cảnh Phúc chỉ huy đã đem voi cản đường khiến quân Tống không thể tiến được. Người Tống vừa sợ hãi vừa nể phục voi chiến nước Việt. Sau chiến thắng trước quân Tống, trong một cử chị ngoại giao, nhà Lý đã dâng tặng vua Tống năm thớt voi để đổi lại việc quân Tống trả đất Quảng Nguyên cho ta.

Vào thời nhà Trần, voi chiến đã tham gia đắc lực vào cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Trong cuộc kháng chiến này, tướng Dã Tượng (tên do Trần Hưng Đạo đặt, có nghĩa là voi rừng) là người có tài thuần phục và chỉ huy đội voi chiến đã lập nhiều chiến công và được sử sách ghi danh như một dũng tướng của nhà Trần.

Trong cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của Lê Lợi, mỗi đội quân khởi nghĩa thường trang bị 5 – 7 thớt voi, khiến cho quân Minh hết sức lo sợ. Vào thời kỳ hùng mạnh, số lượng voi của nghĩa quân lên đến cả nghìn con. Bình Ngô đại cáo viết “Gươm mài đá đá núi cũng mòn, voi uống nước nước sông cũng cạn” là cũng dựa vào thực tế này.

Voi chiến tiếp tục được sử dụng phổ biến vào thời Trịnh, Nguyễn phân tranh, nhưng chỉ đạt được sự đột phá mạnh mẽ về cả chất và lượng vào thời Tây Sơn.

‘Voi lửa’ của vua Quang Trung

Vào các thời kỳ trước, voi chiến thường được sử dụng làm lực lượng đột kích với số lượng tương đối hạn chế cho mỗi mũi tiến công. Phải đến thời Tây Sơn, voi chiến mới được sử dụng tập trung với số lượng lớn.

Đặc biệt, Nguyễn Huệ đã biến voi thành những chiếc “xe tăng”, mang theo cả đại bác và hỏa pháo trên lưng. Sử nhà Thanh viết: “Quân giặc đều dùng voi chở đại bác xông ra trận” và “Trên lưng mỗi con voi có ba, bốn tên giặc chít khăn đỏ, ngồi ném tung hỏa cầu lưu hoàng ra khắp nơi, đốt cháy cả người nữa”.

Voi vốn là loài sợ lửa và tiếng nổ lớn, việc huấn luyện được những con vọi chịu đựng được môi trường chiến đầu khắc nghiệt như vậy thể hiện trình độ quân sự rất đáng nể của các nài voi và tướng lĩnh Tây Sơn.

Với những trang bị như vậy, voi chiến của Nguyễn Huệ đã biến thành một lực lượng hỏa lực cơ động có sức mạnh đột kích đáng sợ. Đến lúc này, đội quân voi của Nguyễn Huệ đã hội đủ cả 3 yếu tố chiến thuật: cơ động, đột kích và hỏa lực. Đây thực sự là một cuộc cách mạng so với các thời kỳ trước đó.

Trận đánh nổi tiếng của đội voi Tây Sơn là trận Ngọc Hồi – Đống Đa (1789). Trong trận đánh này, 100 voi chiến do nữ tướng Đô đốc Bùi Thị Xuân chỉ huy đã đánh tan tác đội kỵ binh đông đảo của quân Thanh, góp phần làm nên chiến thắng vang dội trong lịch sử Việt Nam.

Bên cạnh việc trang bị hỏa lực cho voi, một yếu tố khác cũng làm tăng cường đáng kể sức mạnh của đội voi chiến Tây Sơn là sự ra đời của những chiến hạm khổng lồ Định Quốc. Với khả năng chở được voi, những chiến hạm này khiến cuộc hành quân xuyên Việt của đội voi diễn ra nhanh chóng và dễ dàng hơn rất nhiều bằng đường biển.

Khi nhà Nguyễn kiểm soát toàn bộ nước Việt, lực lượng voi chiến tiếp tục được duy trì trong quân đội. Tuy nhiên, kể từ đây voi chiến dần trở nên lạc hậu trước sức mạnh khủng khiếp của hỏa lực phương Tây. Mất vai trò trên chiến trận, chúng chỉ còn là những con vật mang tính biểu tượng, được sử dụng trong các nghi lễ hay mua vui cho quan lại và dân chúng trong những cuộc chiến với hổ tại Hổ Quyền. Thời kỳ huy hoàng của những chiến binh khổng lồ đã kết thúc.


Không quân Việt Nam và cuộc đối đầu với Trung Quốc ở Trường Sa năm 1988 !

Sau ngày 14/3/1988, các tàu Trung Quốc âm mưu sử dụng lực lượng lớn để mở rộng chiếm đóng các đảo và bãi đá ở Trường Sa nhưng sự xuất hiện các máy bay Su-22 của ta đã khiến tương quan thay đổi buộc họ phải từ bỏ ý định.

X11799876-5

Vươn cánh ra Trường Sa

Cuối năm 1987, tình hình Biển Đông phức tạp, Trung Quốc rục rịch điều tàu xuống khu vực biển Trường Sa. Đến đầu năm 1988, các tàu Trung Quốc chiếm một số đảo và bãi đá. Lực lượng Hải quân Việt Nam đã nhanh chóng huy động tối đa lực lượng ra để bảo vệ với chiến dịch mang tên Chủ quyền 88 (CQ-88).

Ngày 14/3/1988, hải quân hai nước đã đụng độ với nhau ở bãi Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao trong trận hải chiến Trường Sa. Trận chiến làm 2 tàu Việt Nam bị chìm, 1 tàu phải ủi bãi. Việt Nam mất Gạc Ma và Len Đao, chỉ giữ được đảo Cô Lin. Tuy nhiên, đó chưa phải là kết thúc sự việc. Sau trận chiến, các tàu Trung Quốc vẫn còn đó và có thể chiếm đóng thêm các đảo, bãi đá nếu ta sơ hở.

Mặc dù trong trận hải chiến, các máy bay của ta không xuất hiện nhưng ít người biết từ trước đó mấy tháng, Không quân Việt Nam đã có sự chuẩn bị cho tác chiến ở Trường Sa.

Theo Lịch sử dẫn đường Không quân, ngày 6/11/1987, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra mệnh lệnh bảo vệ quần đảo Trường Sa. Một ngày sau, Tư lệnh Không quân ra lệnh cho Sư đoàn 372 đưa một phi đội Su-22M của Trung đoàn 923 từ Thọ Xuân vào Phan Rang sẵn sàng chiến đấu.

Ngày 14/11/1987, phi đội Su-22M nói trên đã có mặt tại Phan Rang và bắt đầu huấn luyện sẵn sàng chiến đấu tại sân bay này. Cần nói thêm là vào thời điểm đó, việc đưa máy bay vươn tới Trường Sa còn gặp khó khăn lớn ở hệ thống dẫn đường. Theo Lịch sử trung đoàn Không quân 923, các radar dẫn đường không quân của ta lúc đó chỉ có bán kính hoạt động 300 km. Trong khi đó, khoảng cách từ Phan Rang ra Trường Sa vượt quá tầm hoạt động của radar.

Bay trên biển cũng phức tạp hơn rất nhiều so với bay trên đất liền vì nhiều khi bầu trời và mặt biển rất khó phân biệt, có thể nhầm lẫn bất cứ lúc nào.

Công tác huấn luyện cho các phi công Su-22 bay biển đã được Trung đoàn 923 thực hiện theo cách từ từ từng bước. Ban đầu phi công bay ra ngoài biển cách sân bay chừng 100 km và bay dọc theo bờ biển với quãng đường bằng đường bay từ Phan Rang ra Trường Sa. Khoảng cách cứ dần dần tăng lên.

Sau một thời gian huấn luyện, đến 10/3/1988, phi công Vũ Xuân Cương cùng một phi công Liên Xô đã thực hiện được chuyến bay đầu tiên ra Trường Sa. Chỉ 4 ngày sau, trận hải chiến Trường Sa diễn ra. Có lẽ do còn nhiều vấn đề nan giải về kỹ thuật bay và dẫn đường mà không quân Việt Nam trong ngày 14/3 đã không thể hỗ trợ cho lực lượng Hải quân.

Tuy nhiên, theo Wikipedia: Một tháng sau trận hải chiến, quân ta cử một phân đội tàu bí mật ra cắm cờ lên bãi đá Len Đao. Trung Quốc phát hiện và lập tức cử 7 tàu chiến đến uy hiếp định lặp lại kịch bản ngày 14/3 nhưng lần này trên bầu trời xuất hiện 6 chiếc máy bay Su-22 Việt Nam khiến các tàu Trung Quốc phải tản ra và ta thu hồi lại được bãi Len Đao.

Tăng cường lực lượng và diễn tập quy mô

Trên Biển Đông sau trận hải chiến, lực lượng tàu Trung Quốc vẫn còn hiện diện gây áp lực. Do vậy, phía ta cũng tăng cường thêm các máy bay vào Phan Rang. Ngày 24/4/1988, có thêm 3 chiếc Su-22M từ Thọ Xuân bay vào Phan Rang. Đến ngày 10/6/1988, Không quân lại điều vào Phan Rang thêm 10 chiếc Su-22M nữa. Như vậy đến lúc này, số Su-22M ở Phan Rang đã lên tới hơn 20 chiếc, sẵn sàng chiến đấu chi viện cho Trường Sa nếu Trung Quốc tiếp tục phiêu lưu quân sự.

Cùng với việc điều thêm máy bay, Không quân ta cũng tiến một bước quan trọng trong tác chiến ở Trường Sa. Trong hai ngày 24 và 28/6/1988, 2 biên đội Su-22M (mỗi biên đội 2 chiếc) đã lần lượt bay nhiệm vụ ra đảo Trường Sa và đảo An Bang. Điều đáng nói, các phi công ta đã bay được độc lập, không cần phi công Liên Xô bay kèm.

Với việc lực lượng Không quân Việt Nam vươn được tới Trường Sa, âm mưu xâm lấn của Trung Quốc đã bị chặn đứng. Bởi vì ở thời điểm đó, Không quân Trung Quốc cũng còn lạc hậu.

Theo như lời viên tướng Raymond Chan kể thì lúc đó các máy bay Trung Quốc nếu cất cánh từ sân bay gần nhất cũng chỉ có thể hoạt động được từ 4 đến 5 phút ở Trường Sa là phải quay về nếu không sẽ hết dầu. Và ông này đã cho biết năm 1988, Hải quân Trung Quốc sợ nhất là gặp Su-22 của Việt Nam.
Tuy vây, trong hai năm 1988 và 1989, Không quân Việt Nam tiếp tục bồi thêm 2 đòn nữa để dập tắt “giấc mơ” của Trung Quốc bằng 2 cuộc diễn tập trên biển.

Vào cuối tháng 10/1988, lực lượng không quân của ta tổ chức một cuộc tập trận với tình huống giả định là bảo vệ Trường Sa. Đợt tập trận này ta huy động nhiều loại máy bay với các nhiệm vụ cụ thể là: Ka-28 có nhiệm vụ tìm kiếm, xác định mục tiêu trên biển, Su-22M tiến công đội tàu hải quân của đối phương, Mig-21 yểm hộ tàu ta trên đường hành quân, Mi-8 làm nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn trên biển và An-26 vận tải tiếp tế cho bộ đội trên đảo.

Trong số này, các máy bay Su-22M là hiện đại nhất lúc đó và là mũi nhọn chủ lực trong tác chiến không đối hải của Không quân ta. Lực lượng Su-22M tham gia diễn tập là Phi đội 1 của Trung đoàn 923. Các biên đội đều thực hiện đúng theo phương án tác chiến và hiệp đồng chặt chẽ với Hải quân. Các phi công đều nhanh chóng phát hiện và công kích chính xác các mục tiêu giả định.

Sang năm 1989, từ ngày 21 đến 27/5, quân đội Việt Nam lại tổ chức một cuộc diễn tập lớn với sự hiệp đồng của cả Không quân, Hải quân và các lực lượng Quân khu 7 với đề mục là bảo vệ khu vực dầu khí và thềm lục địa phía Nam.

Đây là một cuộc diễn tập quân sự rất lớn. Trong đó, lực lượng Không quân tham gia gồm toàn bộ Sư đoàn 370 cùng Trung đoàn 918 và một phần lực lượng của Trung đoàn 923 ở Phan Rang.

Các máy bay được sử dụng gồm Mig-21Bis, Su-22M, Su-22M4, An-26, Mi-8. Khác với cuộc diễn tập năm 1988, lần này, có đặt cả tình huống giả định lực lượng địch có sử dụng máy bay và các Mig-21 của ta xuất kích đánh chặn đội hình máy bay của chúng. Theo tài liệu Lịch sử Trung đoàn Không quân 923 thì chính các máy bay Su-22 của đơn vị đã đóng vai “quân xanh” để cho các Mig-21 tập luyện.

Như vậy có thể nói việc Không quân Việt Nam vượt qua khó khăn để vươn tới Trường Sa và chứng tỏ được khả năng tác chiến biển qua các cuộc tập trận sau đó đã làm thay đổi hẳn tương quan giữa ta và Trung Quốc theo hướng có lợi cho ta. Do vậy, có thể nói rằng sự xuất hiện của Không quân Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn và làm thất bại âm mưu lấn chiếm của Trung Quốc ở Trường Sa.


Điểm mặt bốn đại gia giàu nhất Sài Gòn thời thuộc địa !

redsvn-nha-may-thuoc-phien-sai-gon-02

Họ không chỉ giàu nhất Sài Gòn, mà còn giàu nhất Nam Kỳ lục tỉnh và Đông Dương. Tuy nhiên, theo một số tài liệu, vị trí thứ tư còn được dành cho một số đại phú hộ khác: Tứ Trạch, Tứ Hóa hoặc Tứ Bưởi.

Nhất Sỹ – Lê Phát Đạt (1841-1900)

Lê Phát Đạt, còn có tên gọi là Sỹ, về sau được Pháp phong Huyện hàm, nên còn được gọi là Huyện Sỹ và có tên thánh Philipphê.

Huyện Sỹ sinh ra trong một gia đình theo đạo công giáo tại Cầu Kho (Sài Gòn) nhưng quê quán ở Tân An (Long An). Thuở nhỏ, ông được đi học trường Dòng tại Penang (Malaysia), nên thông thạo các ngôn ngữ: La tinh, Pháp, Hán và quốc ngữ (chữ Việt mới sơ khai). Do trùng tên với một người thầy dạy nên đổi tên thành Lê Phát Đạt. Khi về nước, ông được Chính phủ Nam Kỳ bổ dụng làm thông ngôn, rồi làm Ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ (từ năm 1880). Tuy nhiên, phần lớn thời gian ông dành cho hoạt động phát triển nông nghiệp và truyền bá đạo thiên chúa. Nhà thờ Huyện Sỹ (tại quận 1, TP HCM ngày nay) và nhà thờ Hạnh Thông Tây (tại quận Gò Vấp) do ông bỏ tiền ra xây cất trên đất của mình.

Các con của Huyện Sỹ như: bà Lê Thị Bính (mẹ của Nam Phương hoàng hậu), Lê Phát Thanh, Lê Phát Vĩnh, Lê Phát Tân… đều là những đại điền chủ có rất nhiều đất đai ở Tân An, Đức Hòa, Đức Huệ và Đồng Tháp Mười… Riêng con cả Lê Phát An được vua Bảo Đại phong tước An Định Vương, là người duy nhất trong lịch sử Nam Kỳ thuộc hàng dân dã, không là “hoàng thân, quốc thích” được lên ngôi vị cao quý nhất của triều đình.

Tương truyền, năm 1934, nhân dịp gả cháu gái Nguyễn Hữu Thị Lan cho vua Bảo Đại, Lê Phát An đã tặng cho Nam Phương hoàng hậu 1 triệu đồng tiền mặt để làm của hồi môn (tương đương 20.000 lượng vàng lúc bấy giờ).

Năm 1900, ông Lê Phát Đạt mất. Sau khi vợ ông – bà Huỳnh Thị Tài qua đời năm 1920, người ta mới đưa xác hai ông bà chôn ở gian chái sau cung thánh nhà thờ Huyện Sĩ như một nhà mồ.

Nhì Phương – Đỗ Hữu Phương (1844-1914)

Do được Pháp phong Tổng đốc hàm nên Đỗ Hữu Phương còn được gọi là Tổng đốc Phương. Ông sinh tại Chợ Đũi (Sài Gòn), gốc người Minh Hương, biết chữ Hán, nói được một số tiếng Pháp.

Năm 1872, Đỗ Hữu Phương được Thống đốc Nam Kỳ chỉ định làm hội viên Hội đồng thành phố Chợ Lớn. Năm 1879, ông làm phụ tá cho Xã Tây Chợ Lớn. Ở chức việc này, ông Phương không bỏ qua cơ hội để làm giàu, làm trung gian để các thương gia hối lộ cho viên chức Pháp. Nhờ vậy, sự nghiệp của ông trở nên đồ sộ nhất nhì ở Sài Gòn thời đó.

Đỗ Hữu Phương chính là một trong những người đề xướng và đã bỏ tiền ra xây trường Collège de Jeunes Filles Indigènes vào năm 1915, tức trường Nữ Trung học Sài Gòn, mà người dân thường gọi là trường Áo Tím (nay là Trường Trung học Phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai)…

Trước 1975, ở Chợ Lớn có con đường Tổng Đốc Phương, mà bây giờ là Châu Văn Liêm thuộc quận 5.

Tam Xường – Lý Tường Quan (1842-1896)

Bá hộ Xường, tên thật là Lý Tường Quan, tự Phước Trai, sinh năm 1842, mất năm 1896.

Cuộc đời và sự nghiệp của Bá hộ Xường, sách vở biên chép rất ít, chỉ biết đại khái ông là người Minh Hương, lánh nạn phong kiến nhà Thanh, sang đất Nam Kỳ, vào học trường Tây, rồi làm thông ngôn cho chính quyền Pháp – rất được yêu mến và trọng dụng bởi sự thông minh, đắc dụng. Năm 30 tuổi, ông bỏ nghề thông ngôn bước vào lĩnh vực kinh doanh lương thực dịch vụ, thầu cung cấp vật dụng thức ăn, độc quyền cung cấp thịt cá cho Sài Gòn và các tỉnh lân cận.

Sách Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển chép: Hộ Xường vốn là thông ngôn xuất thân. Sớm xin thôi, ra lãnh thầu cung cấp vật dụng thức ăn cho thị xã, rồi mua đất xây cất biệt thự tại vùng Chợ Lớn để cho thuê và bán. Nhờ khéo tay thêm gặp thời, ông trở thành cự phú không mấy hồi… Thế nhưng, sau khi ông chết, số tài sản kếch sù đều bị con cháu nhanh chóng bán tiêu xài hết. Cái mà nay còn lại là khu nhà mồ cổ khá kiên cố do “tôn tử tương tề đồng tâm” xây dựng vào tháng 12/1896, hiện ở gần di tích Địa đạo Phú Thọ Hòa, thuộc phường 18, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tứ Định – Trần Hữu Định

Người xếp hạng tư là bá hộ Định, tên thật Trần Hữu Định. Xuất thân là chủ tiệm cầm đồ (hoá ra thời ấy đã có dịch vụ “cầm, cắm”), rồi được chính quyền Pháp cho làm Hộ trưởng (bấy giờ, Chợ Lớn là một tỉnh riêng biệt gồm 20 hộ, độc lập cùng với tỉnh Gia Định) kinh doanh đất đai, xuất nhập khẩu vải sợi, ông phất lên nhanh chóng nhờ biết nắm thời cơ những lúc hàng khan hiếm.

Có biệt thự ở nhiều nơi và cũng như bá hộ Xường, danh xưng bá hộ Định hay Hộ Định là do dân Chợ Lớn thấy ông giàu có nên gọi như vậy. Sau khi ông mất, con cháu không biết giữ của, tiêu xài và xoá sạch vết tích của nhà cự phú này.

Năm 1960, trong tác phẩm Sài Gòn năm xưa, Vương Hồng Sển mô tả cơ ngơi của Trần Hữu Định như sau: “Nhà ở khoảng giữa đường Trần Thanh Cần, gần dốc cầu Palikao một đầu và chợ Quách Đàm một đầu. Ngôi nhà năm căn trệt chạm trổ thật khéo, cột cẩm lai bóng ngời ngó thấy mặt; trong nhà từ cái bàn, cái ghế, cái đôn sành đều có vẻ cũ xưa. Mấy năm trước chính mắt tôi còn thấy làu làu vững chắc tuy khuỷnh vườn sân trước đã bị cắt xén sát mặt tiền nhường chỗ làm thềm và đường cái mở rộng nên lấp kênh. Gần đây, vì đất chợ cao giá nên tuy nhà lập làm phần hương hoả mà con cháu đã bán và dỡ đi. Thay vào đó là một dãy phố lầu tiệm buôn khách trú. Phần hoa lợi tuy có thêm, nhưng thiệt hại về cổ tích từ đây và cứ theo đà này, đô thành Sài Gòn ngày một mất dần những dấu vết xưa…”.


Những tờ báo cũ ở miền Nam trước 1975 !

Có một hôm đang làm việc tại tòa soạn  một người đàn ông bước vào hỏi tên tôi, và vào đề ngay: “Nghe nói ông muốn mua sách báo cũ miền Nam, tôi có nguyên bộ tạp chí Văn, không thiếu số nào vì tất cả đã đóng gáy mạ chữ vàng, ông có muốn mua không?” Câu trả lời là có, và kinh nghiệm dạy rằng cần phải để xem người bán muốn bán đến độ nào, người bán là dân trong nghề văn nghề báo hay dân mại bản.

192967-BaocuMN-1-4

Tôi từng chưng hửng khi cách đó khoảng năm năm, một người ở Houston liên lạc về chuyện báo cũ, chủ đề là bộ Bách Khoa, và nói giá một cách rất hăng hái: phải 15,000 Mỹ kim mới bán. Bách Khoa có hai đời chủ nhiệm, sống được khoảng 18 năm, từ 1957 tới 1963 tên Bách Khoa, chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang, thư ký tòa soạn Lê Ngộ Châu, từ 1964 tới 1975 phải đổi tên là Bách Khoa thời đại, vì ông Huỳnh là người của chế độ cũ, mà chế độ đó vừa bị lật đổ hồi 1 tháng 11 năm trước, nên ông Châu lên làm chủ nhiệm, sống thêm 11 năm nữa. Báo ra hai kỳ một tháng, nếu không “sốt tê” (nhảy) một số nào, số chót phải là 432, nhưng chắc chắn không tới con số bụ bẫm toàn vẹn đó, thiếu hụt đâu khoảng vài ba chục số. Thời Việt Nam Cộng Hòa, các tạp chí bán ra khoảng thập niên 60 trung bình, đổ đồng là 30 đồng một số, đầu thập niên 70 giá lên đến 200 đồng một số, đại khái so với Mỹ kim mỗi số báo chỉ giá vài chục xu, mà đòi bán 15,000 Mk bộ Bách Khoa khoảng 400 số, thì quá đáng, cho dù đã đóng bìa cứng mạ chữ vàng đi nữa. Bách Khoa như cái tên, bài viết có từ khoa học quân sự kinh tế chính trị đến văn học nghệ thuật, mình chuyên về có một môn, mua tờ báo có tới 5 môn, là mình không dùng tới 4 môn kia, phí quá.

Nhưng đó là một vụ lẻ loi. Người đàn ông tới tòa soạn tờ báo kiếm tôi muốn bán bộ tạp chí Văn 245 số đã đóng thành 42 tập. Ðương nhiên là tạp chí Văn đối với người viết văn đáng quí hơn là tạp chí Bách Khoa. Người bán không chịu ra giá. Hỏi nhiều lần anh cũng không nói. Người bán không nói giá, người mua không biết đâu mà tính, nhưng cứ khả năng mình, tôi nói sẽ biếu anh nguyên bộ Khởi Hành trị giá lúc ấy khoảng 300 Mỹ kim, cộng thêm 1500 Mỹ kim tiền mặt, anh nhìn tôi lặng lẽ đi ra. Khoảng vài chục thước, anh quay lại nói: “Tôi nợ credit card sát ván rồi, nên mới phải bán bộ báo Văn.” Hỏi anh bộ báo của chính anh mua rồi mang từ Việt Nam qua hay của ai, anh nói khi còn ở Việt Nam, anh chỉ mua tiểu thuyết đọc, chứ không mua tạp chí.
Nhưng một hôm vào cái ngõ ở khu Tân Ðịnh, thấy một ông mập mạp cởi trần đang ngồi bán mấy thứ lặt vặt trước nhà, anh hỏi mua sách, thì ông nói có bộ báo Văn, có mua thì ông bán. Ông mang ra cho xem mới thấy ở gáy tập báo nào cũng có tên chủ nhân mạ chữ vàng in nổi trên cái bìa simili màu xanh xám: Trần Phong Giao. Tôi im lặng nhưng lòng trĩu nặng, đó là thư ký tòa soạn tạp chí Văn, đó là bạn tôi, đó là người mang hết tinh hoa kiến thức của mình gầy dựng nên tờ báo văn chương có nhiều năm bán chạy nhất ở miền Nam. Năm 1975 từ Virginia tôi gửi thư về địa chỉ ở Tân Ðịnh cho bạn, nhưng thư bị trả về, bên ngoài phong bì có nét bút gạch chéo sỗ sàng, và mấy chữ “không có ở đây.” Người bán sách cũ nói thêm anh không định mua bộ báo, chỉ khi biết người đó là Trần Phong Giao, người làm ra bộ báo, anh mới mua, để giúp ông, vì đoán chừng ông đang cùng quẫn ở thành phố bị giặc đỏ hoành hành. Anh chỉ thích mua tiểu thuyết, không thích báo bao nhiêu.

Suy nghĩ tới lui: nợ credit card hết mức rồi thì chắc là 5,000 Mk, bỏ ra số tiền ấy để mua bộ báo cũ, nhà thơ nghèo không kham nổi. Người bán sách báo cũ nghĩ sao, cho tôi số điện thoại và số nhà ở Los Angeles rồi mới quay đi. Hẳn anh hy vọng biết đâu tôi có thể đổi ý. Quả là cách đây vài ba năm tôi có kiếm anh, vì có một hai bạn đọc tri âm muốn mua bộ báo đó tặng lại tôi, song anh không còn ở chỗ cũ.

Trong vài chục năm nay mua sách báo cũ, thư viện của tôi đã không còn chỗ chứa, nay đang phải làm danh sách để bán bớt đi một nửa, khoảng gần một ngàn cuốn. Sách chồng chất quá cao, lên tới sát trần nhà, kê thêm tủ để chứa sách thành ra lối ra vào không đủ tiêu chuẩn 36” bề rộng, nhân viên chữa lửa đã từng cho chủ nhân cái hạn hai tuần để kê lại. Thế mà gần đây có chàng còn muốn bán rẻ cho tôi 20 cuốn báo Sáng Tạo (không đủ bộ 31 cuốn) đòi có 20 Mk một tờ. Bộ Thời Tập 23 cuốn có đủ, giá mua 500 Mk. Bộ Nghệ Thuật Mai Thảo chủ nhiệm, Viên Linh thư ký tòa soạn, 57 cuốn thiếu 5 cuốn, 500 Mk cộng thêm 25 Mk tiền gửi đi sau khi báo được mang từ Tuy Hòa qua San José, từ San José mang xuống Westminster. Bộ Khởi Hành xuất bản trong nước, 156 số từ 1969 tới 1973 ở Sài Gòn, là bộ báo cũ người viết bài này quí nhất, chủ nhiệm Anh Việt Trần Văn Trọng, nhạc sĩ đại tá chủ tịch Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Ðội, thư ký tòa soạn Viên Linh, tờ báo tôi được trao toàn quyền thực hiện, suốt bốn năm tờ báo hiện diện người chủ nhiệm ít nói, nghiêm nghị mà cởi mở, không bao giờ đến tòa soạn.

Nếu phải mua lại bộ báo quí giá ấy, không biết làm sao người ta có thể kham nổi. Nó quí vì nhiều lý do, tờ báo đã khám phá ra nhiều tài năng mới, sau này nổi tiếng, tờ báo đã được sự cộng tác của hầu hết các tác giả danh tiếng nhất Việt Nam, mà sau một năm có mặt, đã in tên tất cả các tác giả ra ngoài bìa. Chủ nhân bộ báo anh L. Ð. đã tặng không cho tôi với lời thư giản dị: như là báo tôi làm ra, thì anh tặng lại tôi bản chính, chỉ cần gửi lại cho anh một bản photocopy là được rồi. Ðiều ấy đã đáng ca ngợi, nhưng điều đáng kính phục nhất là khi biết tôi đang tục bản tờ báo cũ ở California, thì tờ Khởi Hành bộ cũ của gia đình anh, anh mua từng số khi phục vụ trong quân ngũ, lúc ở Tây Ninh khi ở Sài Gòn, còn để trong thùng sắt, cái thùng còn chôn trong vườn nhà. Khi anh chị qua được Hoa Kỳ, mẹ anh vẫn ở trong ngôi nhà đó.

Cách đây khoảng mười lăm năm, lúc tình hình còn khó khăn, Chị L. Ð. đã về Sài Gòn, và mang hơn một trăm số báo đó bằng máy bay qua Hoa Kỳ, để rồi anh chị đóng thùng, gửi qua bưu điện cho tôi. Không bao giờ tôi có thể quên gia đình anh chị, nhất là mẹ anh đã tích cực bảo tồn các di sản văn hóa của người quốc gia, dù vẫn sống trong gông cùm cộng sản. Khi những dòng này được viết ra, người trong nước vừa lập ra một hội nhà văn mới, mà ngay lá thư thông báo đã dùng mấy tiếng “văn học đô thị miền Nam” để ngụ ý đó là “văn học miền Nam.” Ðiều đó ngay lập tức vô hình trung đã cảnh báo rằng văn học của miền Nam, sách báo cũ của miền Nam, là di sản càng ngày càng quí, đến nay họ vẫn sợ hay đã quá quen phải tránh nói đến nó, chưa dám nhắc đến nó một cách bình thường. Người ta quí sách cũ không hẳn vì nó hiếm, nó ít ra đã ghi dấu và mang trong lòng những tờ giấy mong manh những thần thức tinh hoa của một thời đại đã mất.

Viên Linh (Viết ngày 6 tháng 8, 2014)


Lịch sử hàng trăm năm đằng sau mỗi bát Phở nhỏ bé !

Không con người Việt Nam nào là không biết đến phở…nhưng liệu mấy ai biết được nguồn gốc trăm năm lấp đầy mỗi tô phở ấy ?
Phở có ở tất cả mọi nơi. Ẩm thực nổi tiếng nhất Việt Nam giờ đây thậm chí đã được ‘’lưu niệm hóa’’ trên áo thun cho khách du lịch,  có mặt trong từ điển Merriam Webster, trở thành cái tên không hề xa lạ trên toàn cầu.
Bỏ qua sự phổ biến của Phở, hẳn rất ít ai biết đến lịch sử của món ăn này. Có lẽ nhiều người sẽ phải ngạc nhiên bởi lịch sử hàng trăm năm đằng sau mỗi bát Phở nhỏ bé.

pho1

                                             Phở được bán ở mỗi con phố tại Hà Nội
Dưới đây là 2 giả thuyết về nguồn gốc của món ăn này. Cả 2 đều cho rằng Phở được bắt nguồn từ nước ngoài, mặc dù là những nơi hoàn toàn khác biệt….
Nhiều người cho rằng Phở có gốc là món ăn Trung Hoa. Giữa năm 1908 và 1909, tàu thuyền từ khắp châu Á qua lại giữa các cảng trong nước đến Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định. Hàng quán ven đường từ đó mọc lên ngày một nhiều, cốt chỉ để lấp đầy cơn đói của nhiều thủy thủ đoàn. Trong số đó, nổi lên một món ăn khá đặc trưng của Trung Quốc, gọi là Ngưu Nhục Phấn ( sợi tinh bột ăn cùng thịt trâu). Dần dần, người dân địa phương đã sáng tạo lại món ăn này và Phở từ đó ra đời cùng những đặc trưng nổi bật cho đến hiện tại với nước dùng, sợi phở và thịt bò.

pho2

                                         Phở được bán ở mỗi con phố tại Hà Nội
Một giả thuyết khác cho rằng phở được dựa trên công thức của món bò hầm cổ điển từ Pháp (Pot-au-feu), được du nhập vào Việt Nam sau cuộc xâm chiếm thuộc địa. Hai món ăn có nhiều điểm tương đồng như nước dùng làm tự sụn, xương và tủy bò với hương vị được làm dậy nên bởi hành tây và gừng nướng.
Mặc dù xuất hiện lần đầu tiên tại Nam Định nhưng Hà Nội mới đích thực là nơi làm cho món ăn dân dã này trở nên nổi tiếng như ngày nay. Từ năm 1910 đến 1954, Phở có thể được tìm thấy gần như tại mỗi góc phố, con hẻm cổ kính tại thủ đô.
Sau sự thất bại của Pháp ở Đông Dương và Việt Nam vào giữa thập niên 1950, người Bắc di cư xuống miền Trung và Nam mang theo món phở. Cũng từ đây, Phở bắt đầu có sự khác biệt, được ăn kèm cùng giá đỗ, ngò gai, húng quế, tương ớt và chanh. Nước dùng đậm đà, béo và đục hơn,  sợi phở dày và nhỏ, đó đích thị là bát phở mà người miền Nam thân thuộc và yêu thích, khác hẳn với nước dùng trong, thanh nhã của miền Bắc đất nước. Nhưng cho dù có ở đâu, mỗi bát phở Việt Nam đều có thể khiến người ta ấm lòng…….

photaichingan


Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mang gì khi rời khỏi Sài Gòn?

saigon-30-4-1975_o
Ngày 25.4.1975, đại sứ Martin điện cho Kissinger báo rằng đã nghĩ ra cách đưa Thiệu và Khiêm rời khỏi miền Nam bí mật. Martin giao cho tướng Timmes tổ chức cuộc ra đi. Chuyến bay của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mang số 231 đi Đài Loan vào lúc 9 giờ 20 đã mang theo 18 tấn vàng của ngân khố Sài Gòn?…
Lý Quí Chung (1940-2005), bút danh Chánh Trinh, là một nhà báo, và cũng là một dân biểu và nghị sĩ đối lập dưới thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ông từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin trong chính phủ tồn tại 2 ngày của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa cuối cùng Dương Văn Minh. Ông là một nhân vật có điều kiện nhìn sâu vào bên trong bộ máy chính quyền Sài Gòn. Từ góc nhìn của ông, người đọc có thể thấy những sự kiện, biến động chính trị – xã hội, cũng như một số góc khuất trong chính trường Sài Gòn từ 1965 đến 1975.
Ông mất ngày 3.3.2005 tại Sài Gòn.
Nhân kỷ niệm ngày 30.4, xin trích giới thiệu một số tư liệu trong “Hồi ký không tên” của ông. Mời các bạn theo dõi!
 Nhà báo Lý Quý Chung (giữa), tướng Dương Văn Minh (trái)
Kỳ 1.
Không khí tại Dinh Hoa Lan rộn rịp lên sau tuyên bố từ chức của ông Thiệu.
Cựu trung tướng Trần Văn Đôn, nghị sĩ quốc hội, thất bại trong việc toan tính tự giới thiệu mình với Pháp như một ứng cử viên thay Thiệu, giờ chót quyết định ủng hộ người bạn xưa của ông là cựu trung tướng Dương Văn Minh. 
Tướng Đôn trước đây hầu như không thấy xuất hiện ở Dinh Hoa Lan, bây giờ vô ra thường xuyên. Tuy Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn cùng tham gia cuộc lật đổ hai anh em Diệm – Nhu và đều xuất thân là những sĩ quan quân đội Pháp nhưng ngoài đời hai người rất ít quan hệ với nhau vì tánh tình rất khác nhau.
Ông Minh thích thể thao từ nhỏ, đã từng là thủ môn của đội bóng Thủ Dầu Một những năm 40, một đấu thủ quần vợt có hạng và mãi sau này ông vẫn cầm vợt ra sân tuần ba buổi tại câu lạc bộ CSS. Khác với phần đông các tướng lãnh Sài Gòn đều mê gái, ông Minh có một cuộc sống gia đình rất gương mẫu. 
Tướng Đôn ngược hẳn: ông như nhân vật Don Juan, các phụ nữ đẹp trong giới thượng lưu Sài Gòn khó thoát khỏi tay ông nếu lọt vào tầm ngắm của ông. Dù không hợp nhau nhưng Minh và Đôn vẫn tôn trọng nhau.
Người ta cũng thường thấy xuất hiện một số tướng về hưu như trung tướng Nguyễn Hữu Có, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh… Thẳng thắn mà nói số tướng tá chung quanh ông Minh lúc này không có nhiều và cũng ít có gương mặt nổi bật. Các tướng tá đương quyền, thuộc thế hệ sau, đều phò Thiệu hoặc Kỳ. 
Nếu xảy ra một cuộc đối đầu quyền lực với Nguyễn Cao Kỳ, chắc chắn nhóm ông Minh sẽ gặp khó khăn. Lực lượng của ông Minh quá mỏng. Do lâu ngày tách khỏi quân đội, ông Minh không còn tay chân thân tình của mình trong hàng tướng tá. 
Trong các buổi họp hàng tuần của nhóm ông Minh chỉ thấy có mặt hai nhân vật quân sự thuộc thế hệ đã qua: đó là cựu trung tướng Mai Hữu Xuân và cựu trung tướng Lê Văn Nghiêm, đều không còn ảnh hưởng trong quân đội.
Khi nhân vật tình báo Mỹ Charles Timmes gián tiếp nói cho Kỳ biết đại sứ Mỹ Martin ủng hộ giải pháp Dương Văn Minh và không ủng hộ cá nhân ông, Kỳ không giấu giếm lập trường của ông là sẽ chống ông Minh không khác chống cộng sản. Tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ vẫn nuôi tham vọng trở lại chính trường. 
 

Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu chưa bao giờ tin nhau 

Ngay sau khi Thiệu ra lệnh rút khỏi Ban Mê Thuột, từ Khánh Dương trên Cao Nguyên – nơi ông có một nông trại – Kỳ đáp máy bay trực thăng về Sài Gòn nhờ tướng Cao Văn Viên, đang là tổng tham mưu trưởng, thuyết phục Thiệu giao quân cho Kỳ đi ngăn chặn sự tiến quân của quân giải phóng và bảo vệ Sài Gòn. Trong hồi ký của mình (“Buddha’s Child”), Kỳ kể đã gặp Cao Văn Viên.

Kỳ hỏi” “Tình hình Ban Mê Thuột thế nào rồi?”.

Viên đáp: “Rất khó khăn. Chúng ta không có thừa quân vì phải bảo vệ Sài Gòn”.

Kỳ: “Tôi không cần nhiều quân. Cho tôi vài tiểu đoàn thủy quân lục chiến hoặc dù, và chừng 20 đến 25 chiến xa, tôi sẽ tìm cách phá vỡ sự bao vây. Tôi sẽ trực diện với quân địch và chiến đấu”.

Dừng một lúc, Kỳ hỏi Viên: “Anh có nghĩ là tôi sẽ thành công?”

Viên trả lời: “Nếu anh chỉ huy lực lượng đó, tôi nghĩ là thành công”.

Kỳ: “Vậy thì hãy để tôi hành động”.

Viên: “Đáng tiếc tôi không ở vào vị trí có thể lấy một quyết định như thế. Quyết định này thuộc thẩm quyền của tổng thống Thiệu”.

Kỳ: “ Ô kê, hãy gọi cho Thiệu, báo cho ông ta tôi đang ở đây và nói với ông ta biết đề nghị của tôi…”

Viên gọi điện cho Thiệu, nhưng tổng tham mưu trưởng không nói chuyện được với vị tổng chỉ huy của mình. Thông qua một tùy viên của Thiệu, Viên để lại một báo cáo. Nhưng sau đó, viên trợ lý này gọi lại tướng Viên và cho biết:

“Tổng thống cảm ơn tướng Kỳ rất nhiều về đề nghị của ông nhưng tổng thống cần có thời gian để suy nghĩ về đề nghị của ông”.

27 năm có đủ lâu để suy nghĩ cho một quyết định như thế? Tôi vẫn chờ câu trả lời của Thiệu. Có lẽ  ông ta sợ tôi sẽ làm gì đó tại Sài Gòn với đơn vị xe tăng hơn là sợ đối phương có thể làm gì với quốc gia”.

Thật sự đây chỉ là canh bạc xì phé mà Kỳ tung ra với Thiệu. Cả Cao Văn Viên và Nguyễn Văn Thiệu không ai tin rằng Kỳ sẽ cầm quân ra mặt trận vào lúc đó và sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ cái ghế tổng thống của Thiệu. 
Điều mà cả hai nghĩ là có quân trong tay Kỳ sẽ tính tới lật đổ Thiệu và giành lấy quyền bính mà ông ta đã để lọt ra khỏi tay hồi năm 1967. Tự cho mình quá hiểu Kỳ, Thiệu đương nhiên gạt qua một bên “đề nghị viển vông” ấy.
Vào lúc CIA có  ý định lật đổ Thiệu, ông Kỳ lại được nhà báo Mỹ Robert Shaplen của báo New Yorker tích cực vận động để quay trở lại chính quyền. Từ đầu Shaplen luôn ủng hộ Kỳ. Shaplen có ảnh hưởng khá lớn đối với tòa đại sứ Mỹ, nhưng cuộc vận động này bất thành. Nếu quân giải phóng chưa vào Sài Gòn ngày 30-4-1975, chắc chắn Kỳ cũng sẽ tìm cách đảo chính ông Minh.
Chân dung Nguyễn Văn Thiệu
Ngày 25-4-1975, ông Thiệu rời Sài Gòn một cách bí mật; địa chỉ đến là Đài Loan. Trước đó, quyền tổng thống Trần Văn Hương thúc hối đại sứ Martin phải áp lực để ông Thiệu rời Việt Nam sớm bởi “sự hiện diện của ông Thiệu gây khó khăn cho ông”! 
Từ ngày 21-4 sau khi tuyên bố từ chức, ông Thiệu và gia đình vẫn ở trong Dinh Độc Lập. Ông Thiệu rời Dinh Độc Lập vào lúc 7 giờ 30 tối. Cùng đi với ông Thiệu có tướng Trần Thiện Khiêm, cựu thủ tướng và là người bạn thân của Thiệu. 
Bà Thiệu và bà Khiêm đã rời Sài Gòn trước đó vài ngày. Bà Khiêm mang theo cả người giúp việc. Theo sự tố giác của linh mục Đinh Bình Định, người rất gần gũi với linh mục Trần Hữu Thanh, thì trong quân đội vào đầu tháng 3 có nhen nhúm một kế hoạch kết hợp Thiệu và Khiêm thành một liên danh tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 3 vào cuối năm 1975, nếu chế độ Sài Gòn còn kéo dài. Chính Thiệu cũng từng tiết lộ kế hoạch này với đại sứ Martin và cho rằng nếu ông làm tổng thống một nhiệm kỳ nữa thì ông sẽ có điều kiện mở rộng dân chủ!

Chi tiết về cuộc “trốn chạy” của ông Thiệu – vâng phải gọi đó là cuộc trốn chạy – được các tài liệu CIA sau này tiết lộ như sau:

Ngày 25-4-1975, đại sứ Martin điện cho Kissinger báo rằng ông ta đã nghĩ ra cách đưa Thiệu và Khiêm rời khỏi miền Nam một cách bí mật. Martin giao cho tướng Mỹ Timmes tổ chức cuộc ra đi của Thiệu.

Timmes điện cho Thiệu và cho biết ông ta có thể dùng một chiếc trực thăng để  đưa Thiệu từ Dinh Độc Lập đến phi trường Tân Sơn Nhất. Nhưng ông Thiệu trả lời rằng ông ta muốn đi bằng ô tô để ghé tổng tham mưu trước và “uống một ly rượu với 22 tướng tá” đến chào từ biệt ông ta tại đây. 
Hình như nơi Thiệu và Khiêm ghé lại là nhà riêng của ông Khiêm. Từ tổng tham mưu, Chính nhân viên CIA Frank Snepp và tướng Timmes đưa Thiệu và Khiêm vào sân bay. Timmes giới thiệu Snepp với Thiệu: “Đây là một chuyên viên phân tích cừ khôi của tòa đại sứ, hơn nữa anh còn là một tài xế đẳng cấp”. 
Khi ô tô đi vào sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, Timmes khuyên ông Thiệu cúi người xuống “như thế an toàn cho tổng thống”. Timmes sợ lính gác nhận ra tổng thống của họ chạy ra nước ngoài và biết đâu sẽ manh động. Timmes hỏi bà Thiệu và con gái, ông Thiệu trả lời: “Họ đang shopping ở Lon Don mua đồ cổ”. 
Đại sứ Martin đứng chờ sẵn ông Thiệu bên cạnh chiếc máy bay C-118. Trước khi lên máy bay ông Thiệu vỗ vai cảm ơn Frank Snepp. Trong bài viết riêng của mình liên quan đến giây phút này  trong quyển “The VietNam War rememberd from all sides” của Christain G. Appy, Frank Snepp có kể rằng ông Thiệu bắt tay Sneep và nói  “tiếng Anh bằng giọng Pháp” với Snepp rằng: “Cảm ơn, cảm ơn tất cả mọi chuyện”. 
Nhưng sau đó Snepp lại tự hỏi ông Thiệu cảm ơn chuyện gì? “Tôi nghĩ chúng ta (tức người Mỹ) đã mất 58.000 thanh niên tại đây – ông Thiệu cảm ơn chuyện đó? Hay đơn giản cảm ơn vì bản thân mình chuồn đi được?” Đại sứ Martin theo Thiệu vào tận bên trong máy bay. 
Ông ta nói với Thiệu “Chúc may mắn” rồi mới bước xuống lên ô tô của mình. Chuyến bay của Thiệu mang số 231 đi Đài Loan vào lúc 9 giờ 20. Có tin đồn Thiệu mang theo 16 tấn vàng của ngân khố Sài Gòn. Thật sự số vàng ấy vẫn ở lại miền Nam. Nhưng theo Kỳ thì “ Thiệu mang theo 17 tấn hành lý và nhiều triệu đô la tiền mặt. Ông ta không cần chuồn với số vàng của ngân khố quốc gia”.
Dân Sài Gòn dửng dưng (và không ngạc nhiên) khi hay tin sự “trốn chạy” của Thiệu ra nước ngoài. Họ không ngạc nhiên vì Nam Việt Nam đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu những cuộc đào tẩu như thế của những kẻ một thời lãnh đạo Miền Nam. 
Trường hợp của ông Thiệu cũng thế thôi, nằm trong sự dự đoán trước của nhiều người. Trung tá phi công Minh, bạn học của Hoàng Đức Nhã ở Lycee Yersin Đà Lạt, được Nhã kéo về chỉ huy đội bay trực thăng riêng của tổng thống Thiệu trong nhiều năm, gặp tôi ở Dinh Độc Lập tối 29-4-1975 đã bày tỏ sự bất mãn của anh với cách cư xử của Thiệu đối với những người đã từng là thân tín của ông ta.
Lý Quí Chung
Bình luận của Quốc Phòng
Chuyện có hay ko việc Tổng thống Thiệu mang 16 tấn vàng ra nước ngoài khi đào tẩu khỏi Việt Nam . Tôi xin kể lại câu chuyện có thật mà tôi được 1 người gần như trong cuộc kể vói tôi. Câu chuyện đã cả chục năm nên tôi ko còn nhó tên các nhân vật . Số là khi báo Thanh niên đăng dài kì về chiến công hiển hách của nhóm chuyển tiền của cách mạng vào Sài Gòn do ông cựu Thống đốc Minh Châu chỉ huy. Có một bà tuổi khoảng trên 70 có gặp tôi cung cấp thông tin báo Thanh niên đề cập vụ 16 tấn vàng đó đã chuyển theo máy bay cùng ông Thiệu chưa ? Bà cho biết chồng bà , sau giải phóng là Phó tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương ( bây giờ) , CHƯ lúc đó tên gọi hơi khác . Bà nói , trong lúc chồng bà chuẩn bị sang Liên Xô , bà có chuẩn bị quần áo cho ông thì có hỏi chồng mình đi có lâu không để còn biết mà xếp đồ . Ông nói nhỏ chuyện Bí mật vói bà rằng ông sang Liên Xô lần này là mang theo hàng chục tấn vàng sang đó trả nợ Bạn một phần và còn lại thì dập lại số vàng này theo quy định của Kho bạc Viêt Nam để nhập kho. Bà cho rằng ko có chuyện ông Thiệu mang vàng chạy đi . Bà nói như thế với tôi và mong báo có dịp nên nói lại để nhiều người cùng biết vì chồng bà khi đó đã qua đời .

Thăm Cô Hồ Xuân Hương

Ngày Nhà Giáo Việt Nam 2013 – Chi hội cựu học sinh THVT 73-80


Thầy Hồng Sanh ca cổ tặng vợ

nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 2013 chi hội cựu học sinh THVT 73-80 đến thăm gia đình thầy


Chút lắng đọng nhớ đến Thầy


Blog Radio – Chào Mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2013


Thăm cô Hồ Xuân Hương – Ngày Nhà Giáo Việt Nam 2013

Thăm cô Hồ Xuân Hương - Ngày Nhà Giáo Việt Nam  2013Cách đây 6 tháng ,cô đã làm biết bao người khóc ( ảnh của Ngọc Anh  nk 73-80 gửi từ nhà cô Xuân Hương số 84 Đồ Chiểu Vũng Tàu về Sài Gòn rồi lên net trong vòng 10 phút )


Tình thầy trò Trung Học Vũng Tàu !

Tình thầy trò Trung Học Vũng Tàu !

Nhân Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2013 , chi hội cựu học sinh THVT 73-80 tổ chức đi thăm thầy cô tại TP Vũng Tàu ( Trong ảnh nhóm nữ đến thăm nhà Thầy Bút và Cô Anh ngày 17/11/2013 ) .Một tấm ảnh có giá trị ,diễn đạt được nhiều chiều, khiến ta phải suy gẫm về con người , thời gian và lối sống …


Cafe Givral , hồn bây giờ ở đâu ?

Cafe Grival , hồn bây giờ ở đâu ?

Vào dịp 30/4/2010, trong cuộc “Hội ngộ Sài Gòn” của các cựu phóng viên chiến trường Mỹ và phương Tây, một chủ đề hay được họ nhắc tới, thậm chí có lúc xôn xao, là sự kiện quán cafe Givral sẽ bị đập đi cùng với toàn bộ toà nhà Eden cũ để xây dựng một Vincom Center tráng lệ và sang trọng ngay ở một vị trí được xem là “trái tim” Sài Gòn.
Không ít người trong số họ đã tranh thủ tới ghi lại những hình ảnh cuối cùng về một Givral “lịch sử và huyền thoại”.
Với người Sài Gòn, Givral không đơn thuần là quán cafe, mà còn là một phần của lịch sử, là một giá trị văn hóa. Cùng với Bưu điện Trung tâm, Nhà thờ Đức Bà, Nhà hát thành phố, Khách sạn Continental, Chợ Bến Thành… quán cà phê Givral lưu giữ một phần hồn của Sài Gòn.
Givral được khai sinh từ những năm 40 thế kỷ trước, nằm trong tòa nhà Eden, tọa lạc ở vị trí đắc địa của Sài Gòn. Alain Poitier – một người Pháp sống lâu năm ở Việt Nam đã bỏ ra 8 tháng để chuẩn bị và vào cuối năm 1940, ông biến địa điểm của tiệm thuốc Tây đầu tiên ở Sài Gòn trở thành một tiệm bánh mang hương vị Pháp – Việt.Nhà thơ Đỗ Trung Quân khi nghe tin nầy đã diễn tả tâm sự ngay trên blog mình….:
” Về lại Sài Gòn, tôi bỗng nhớ khôn nguôi những quán cà phê của mình, những nơi lẽ ra cũng phải trở thành địa chỉ văn hóa, phải được gìn giữ và bảo tồn cho một thành phố thu hút du khách. Nó chính là nơi nhiều gương mặt danh tiếng nhất về văn chương, thơ ca, hội họa, âm nhạc, cũng như những tên tuổi lớn trong các hoạt động văn hóa xã hội của Sài Gòn một thời thường có mặt.
Hòa bình đã 38 năm, những ngộ nhận ấu trĩ hay giả vờ ngộ nhận là ấu trĩ …có lẽ đã đi qua, hay ít nhiều không còn nặng nề như thời tiếp quản thành phố. Tiếc thay, La Pagode đã biến mất, cái quán cafe ” Cái chùa ” từng nằm trên góc ngã tư Lê Thánh Tôn – Tự Do (nay được gọi là Đồng Khởi) biến mất vĩnh viễn. Brodard, một quán kiểu Pháp danh tiếng khác của Sài Gòn cũng không còn là Brodard nguyên trạng của nó: nó đã thay tên và thay cả kiến trúc.
Cái còn lại trong “bộ ba” danh tiếng ấy (đó là chưa kể La Croix du Sud, cũng trên đường Catinat) là Givral, nơi khi chọn làm bối cảnh một trường đoạn của bộ phim Người Mỹ trầm lặng đoàn làm phim đã không ngại tốn kém, bắt buộc phải dựng lại đúng màu sơn, đúng hình dáng của nó ở thập niên 60-70.
Cuối cùng thì ông thương cảm nhỏ một giọt lệ cho Grival :
Xin vĩnh biệt Grival, cái quán góc phố nơi ngày còn nhỏ ta từng được mẹ nắm tay dẫn qua trên hè phố Sài Gòn…
Tôi bắt đầu viết báo năm 1982, có những bài được viết ở Givral. Nơi chốn này đã được lắp máy lạnh, bàn ghế mới. Vẫn là bánh ngon và càphê thơm. Có những ngày tôi tiêu tốn bảy tiếng đồng hồ ở đó, uống rất nhiều càphê, hẹn phỏng vấn người này người nọ, đói thì ăn bánh mì, những ổ bánh vàng ươm giòn tan, vụn bánh rơi đầy trang viết. Thỉnh thoảng, gặp bác Phạm Xuân Ẩn, gầy gò, thuốc Lucky Strike lập loè trên môi. Thỉnh thoảng ngồi với anh Trịnh Công Sơn, với những người bạn ngoại quốc làm báo hay làm nhạc. Ở đó, nhiều bài hát đã ra đời trong không khí giả-thuộc-địa yên tĩnh, quanh mình là những người khách đi nhẹ nói khẽ, ngoài cửa là những người chạy xe ôm, đánh giày, bán bưu thiếp qua lại thoăn thoắt, bên kia đường là Nhà hát thành phố tái thiết, hai pho tượng khoả thân trắng loá hiện ra như trong mơ…( ĐTQ)
Bánh Givral thực sự không đặc biệt ngon. Bây giờ, so với chẳng hạn pat-à-chou thì không bằng, vị nhạt, hương cũng không đáng chú ý. Nhưng bánh Givral lại hợp với càphê sữa ở đó: nhúng bánh sừng bò vào tách càphê nóng, hoặc là một gói cookies ăn với càphê lạnh chèn thật nhiều đá xay, thì không nơi nào cho mùi vị đáng nhớ bằng Givral. Chỗ ngồi và cảnh quan đã thay sau khi đoàn làm phim Người Mỹ trầm lặng thuê năm 2001, nghe đâu là phục dựng hệt như Givral đầu thế kỷ. Tôi lui tới thường xuyên từ đó đến khi nó bị phá huỷ để xây Vincom.
Ngồi Givral bên phía Đồng Khởi đẹp hơn phía Lê Lợi. Nhìn xuôi theo con đường, thì thấy Caravelle và khu nhà thấp sau bị phá để xây Artex Building. Nhìn ngược về con dốc Đồng Khởi, có thể thấy Continental, công viên Chi Lăng phía xa. Thú vị nhất là mua sách Xuân Thu rồi tạt vào Givral vừa uống càphê vừa đọc. Những buổi chiều mưa, cái thú tăng lên nhiều lần. Ngồi một mình, hay với bạn, với gia đình, Givral vẫn là nơi chốn thích hợp.
Thơm lừng trong trí nhớ tôi không hẳn là mùi bánh nướng, bánh sừng bò, bánh mì ổ dài baguette, mà còn là hương càphê toả từ những phin lọc. Càphê ở đấy thơm lạ lùng, như thể nơi chốn được dựng lên để cất giữ hương càphê. Để cất giữ ký ức.Và Givral mới đã được khai trương lại vào ngày10/10/2012 đồng thời với tòa nhà Vincom Center. Nó vẫn nằm ở vị trí cũ, nhưng tất nhiên, nó không còn như cũ.
Quán mới với tông màu nâu, vàng kem chiếm phần chủ đạo trong thiết kế, nội thất gỗ cố ý thể hiện cho mang nét hoài cổ, nhưng sự hiện đại, sang trọng thấy khá rõ…
Sài Gòn với một lịch sử đi qua quá sâu đậm, chỉ những ai nặng hoài niệm với một không gian ấm cúng kiểu Tây hẳn sẽ hoàn toàn lạ lẫm với Givral mới, kiến trúc nó phảng phất đường nét của kiến trúc đâu đó ở Singapore.
Givral mới xóa hẳn phong cách kiểu Pháp đã có hơn nửa thế kỷ của nó. Givarl mới lộng lẫy dù những mảng tường được trang trí bởi nhiều bức tranh Sài Gòn xưa, nó cũng chỉ như một quán cà phê hộp có bán bánh ngọt, ….Thế thôi !Sau gần một năm gắng gượng để tồn tại .Đầu tháng 9/2013 Givral mới đóng cửa trong lặng lẽ vì không chịu nổi tiền thuê mặt quá cao giữa lúc kinh tế đang lao dốc vào một cái lỗ đen không thấy đường ra …. Thế là hết La Pagode,Brodard và Givral ba chàng ngự lâm pháo thủ của một thời Sài Gòn hoa lệ.


George Michael – The First Time Ever I saw Your Face

The first time ever I saw your face
I thought the sun rose in your eyes
And the moon and stars were the gifts you gave
To the dark and the empty skies, my love,
To the dark and the empty skies…
Lần đầu tiên anh nhìn thấy khuôn mặt em
Anh nghĩ đến cánh hồng mặt trời trong mắt em
Và mặt trăng với những ngôi sao chính là món quà em trao tặng
Tới những nơi tối tăm và trống rỗng của bầu trời , tình yêu của anh
Tới những nơi tối tăm và trống rỗng của bầu trời…


Bông hồng cho ai ?

Bông hồng cho ai ?


Maman oh Maman (Mẹ hiền yêu dấu)

Marianna Phạm


Top 10 Piano Songs: Best Relaxing “Solo Piano” Music for Candlelight Dinner, Romantic Songs


Andre Rieu – Romantic Paradise Part 1 (2008)


Romantic Love Songs – Instrumental Hits


Xin hãy nhớ tới những người đồng bào Sê Đăng này !

Xin hãy nhớ tới những người đồng bào Sê Đăng này !

Trong ảnh là cảnh đồng bào người Sê Đăng ở Làng Tea RơXa ,Đak Tô KonTum đang sống với những điều kiện dưới mức bình thường .Rất cần một giếng nước sạch và hệ thống xử lý nước tốt để giảm bớt bệnh tật.Ai có thể đóng góp gì xin cho biết tại đây…Chân thành cảm ơn !

Mọi thông tin xin theo dõi tại đây :

http://caoquang2012.wordpress.com

email liên hệ : caoquang@gmail.com


Người lái đò trên sông Đà !

Người lái đò trên sông Đà !

Anh Tám “Người lái đò trên sông Đà ” ở bến thuyền Thung Nai ,Hòa Bình .Anh là người vừa đưa tôi làm một chuyến du ngoạn trên sông Đà .Ai có đến sông Đà ,xin giới thiệu Anh Tám lái đò ở bến thuyền Thung Nai,ĐT liên lạc 01655559942 / 0912003075 .


Chiếc lá chùm ruột ở quê nhà

Chiếc lá chùm ruột ở quê nhà

Tôi đếm. Chiếc nem được áo bằng 41 lá chùm ruột. Chắc những bàn tay gói nem ấy sẽ không đếm lá bằng lý trí mà chỉ bằng cảm giác của kinh nghiệm nhà nghề. Bàn tay ấy còn tồn tại bao lâu?

Thật lâu lắm mới gặp lại cây chùm ruột tại một căn nhà ở KonTum mới chiều chủ nhật vừa rồi. Và chiều nay, gặp lại lá chùm ruột, thời gian cách lần trước  chỉ mới hai ngày bên bàn nhậu.
Bên ngoài đám lá chùm ruột là một chiếc áo lá chuối hình ngũ giác có ba mặt đứng tạo thành hình tam giác cao chừng 3-4cm và hai mặt đáy nhỏ hơn. Bên ngoài chiếc áo lá chuối một lớp ấy là một sợi dây bằng lá chuối cuốn lại cột ngang bụng cái lõi nem một cách cẩn thận.

Rồi bên ngoài nữa là một lớp “mền” dày quấn quanh ba cạnh đứng của lõi nem gồm 12 lớp lá chuối.Cuối cùng là lớp lá chuối tạo hình cho chiếc nem vẫn giữ nguyên khối năm mặt như bên trong, có điều kích thước đã lớn hơn, được cột bằng hai nuộc dây thun (trước kia cột bằng lạt, nay đã là một thứ phôi phai. Hai chiếc nem ghép lại thành một hình gần như lập phương.

Còn bao nhiêu lâu nữa chiếc nem được gói bằng tay công phu như thế vẫn giữ được căn cước Ninh Hòa của mình? Ruột nem đã không còn bì sợi và liệu có còn được giã bằng tay nữa không?Từ lúc giã quết nem cho đến lúc gói xong một chiếc là cả một sinh thành gian nan. Trong khi đó chả, món đối lập với nem  đã bị cơ giới hoá từ lâu lắm rồi, và được ca ngợi như là một thành tựu của văn minh. Điều đó cũng cho thấy, giờ đây các bà “ăn đứt” các ông một cửa, theo cái điệu thành ngữ Việt bảo’ ông thích chả bà thích nem’. Chả làm sao công phu bằng nem! Nhất là bây giờ chả được tạo cảm giác dai giòn bằng hoá chất.

Lá chùm ruột chỉ nhỉnh một chút chua, còn lại là chát, được dùng hãm chua cho chiếc nem Ninh Hoà, thay vì dùng bao nylon như nem Lai Vung. Cộng với nhiệt độ được giữ bên trong mười mấy lớp lá chuối tươi. Ba ngày nem mới chua.Vài chiếc lá chùm ruột ăn với miếng nem vừa chua sau ba ngày, thế cân bằng chua chát thật vững.

Ngày xưa, mỗi lần có dịp  ăn bánh tráng cuốn nem Ninh Hoà với những cuốn bánh tráng nho nhỏ ram sẵn. Ăn những miếng ăn “sang trọng” của một thời khốn khổ. Chấm vào mắm thấm, cắn một miếng tỏi và ớt hiểm. Ngon sao mà ngon!

Năm rồi, trở lại Nha Trang, nhớ nem Ninh Hòa. Anh Dũng, giám đốc công ty thể thao biển ở Khánh Hoà, mới nói: “Nem Ninh Hoà mà ăn ở những địa chỉ nhà tour chở đến  Nha Trang là sỉ nhục nem quê nhà.” Và ông, lúc đó, lấy xe chở đi, dù trời đã tối, đã gần 11g, ăn nem Ninh Hoà tại Ninh Hoà. Một cái quán ở ngay đầu thành phố.

Chiều nay, gặp lại chiếc lá chùm ruột, chợt nhớ chiếc nem Ninh Hòa.

Quê nhà cuối cùng rồi cũng chỉ là để xa và nhớ, đó là tâm trạng của những người con nhập cư ở đất Sài Gòn. Về lúc nào cũng hụt hẫng muốn nhanh nhanh trở lại đất Sài Gòn. Một tha hương đầy bao dung tha thứ cho nhiều kẻ ngồi ở trong lòng nó mà chê bai, rủa nguyền những thứ Sài Gòn không bằng những thứ ngoài kia.


Mùa hè , mùa”Sale off” ở Mỹ !

Các kiểu sale mùa hè ở Mỹ :Sale từ shop…
Đến Mỹ đúng vào dịp Summer sale (giảm giá mùa hè), và July-fourth (4.7 – ngày lễ Quốc khánh Mỹ), đi đâu bạn cũng thấy các cửa kính chói loà: “On sale 50 – 70%” hoặc “all sale 50%”, từ mall (phố mua sắm lớn) đến outlet (các khu tập trung bán hàng hiệu giảm giá). Mua hai tặng một, mua cái thứ nhất thì được giảm giá 50% cái thứ hai, mua bốn tính tiền ba… rất quen thuộc với người tiêu dùng Mỹ. Thỉnh thoảng lại thấy các anh chàng cầm bảng quảng cáo “50% – 60% off… đủ loại” nhảy múa tưng bừng ngoài các cửa hàng chào mời khách trong cái nắng oi ả.
Mùa hè, 7, 8 giờ tối trời vẫn sáng trưng, nên không chờ đến cuối tuần các mall (phố mua bán lớn) mới đông, mà sau giờ làm việc ngày thường đã thấy chỗ nào cũng hàng dãy người xếp hàng trước các cửa hàng. Mỗi mall rộng khoảng vài chục hecta, với cả trăm cửa hàng đủ mọi thương hiệu nổi tiếng, đi trễ khó mà tìm được chỗ đậu xe, vì vậy mỗi lần đi mall là mất cả ngày mới đã. Bước vào mall thì mát rượi, mùi thơm thoang thoảng, tiếng nhạc du dương trầm bổng làm người ta quên đi nắng nóng, ai cũng náo nức tìm mua. Tuy vậy, các cửa hàng chính hiệu dù đã sale rồi nhưng một cái quần jean Levis cũng còn 50 – 70 USD là bình thường, túi xách Coach xoàng xoàng cũng phải trên 100 USD. Người quen sống lâu ở Mỹ mách bảo, muốn mua được hàng hiệu vừa túi tiền thì phải vào các shop của T-J –Maxx, Marshall, hay Ross – ba hệ thống cửa hàng chuyên bán đủ loại hàng hiệu tồn kho giá rất rẻ. Những nơi này, một túi xách Tommy chỉ khoảng 29 USD, đôi giày Puma 25 USD, áo thun Adidas từ 7 – 15 USD. Không chỉ quần áo, giày dép nơi đây còn bán đủ các mặt hàng từ mỹ phẩm, đồ chơi, đồ nhà bếp… rẻ thấy ham, thích nhất là bảo đảm đúng hàng hiệu. Mua xong được đổi, trả thoải mái… Mà bạn cũng đừng tưởng những nơi này kém sang trọng, cũng lộng lẫy, sáng loà, phục vụ chu đáo như bất kỳ tiệm hàng hiệu chính gốc nào. Thích nhất là tha hồ lựa chọn, tha hồ thử quần áo chẳng ai phàn nàn, lúc nào các nhân viên bán hàng cũng tươi cười, tận tình phục vụ. Khi tôi xách mấy cái túi ra quầy tính tiền cũng là lúc sắp đến giờ đóng cửa. Cô nhân viên thoăn thoắt scan giá hàng và trừ đi 65% giảm giá, tuy vậy hoá đơn cũng lên đến hơn 300 USD, ngoài dự toán của tôi… Tôi nói, “Xin lỗi, tôi không đủ tiền, để tôi bỏ lại vài món”.
Dù đã gần giờ về, cô bán hàng vẫn vui vẻ: “Mời ông, cứ tự nhiên”. Bỏ ra vài món thì số tiền phải trả tính cả thuế tròm trèm 200USD. Bước ra khỏi tiệm lúc này tôi mới cảm thấy mệt mỏi và hoa mắt suýt chút nữa thì đâm sầm vào cửa kính trong suốt trước mặt. Đây là lần đầu tiên tôi vào Ross ở thành phố Houston, Texas. Sau này được vài lần đến Marshall tôi đã tự tin và thành thạo hơn, không cần thử, chỉ chọn mang về… không thích thì lại trả, thậm chí nếu thấy lần sau giá sale nhiều hơn mang đến đổi cũng được. Kiểu bán hàng như vậy thì làm sao mà kềm lòng cho đặng!
… Đến ” Garage Sale”
Nhà ở Mỹ, đa phần đều có garage thường thì đủ chỗ cho hai chiếc xe hơi, rộng hơn thì được ba bốn chiếc. Và nhiều nhà cứ để xe ngoài đường, tận dụng garage làm kho chứa đồ. Ở lâu mới biết, cái thú đi mua hàng sale không chỉ riêng có ở khách du lịch mà đa phần người Việt nào ở Mỹ cũng thích mua hàng sale. Cuối tuần đi siêu thị hay shopping thấy hàng sale là mua, nhiều khi chưa dùng đến cứ chất chồng, chất đống trong tủ lạnh, garage…
Cô bạn tôi qua Mỹ gần mười năm, cho biết cái thú mua sắm quần áo trong mall của cô chưa bao giờ vơi, quần áo trong tủ không hề trống, treo chật đến nỗi có những món không hề nhớ, đã mua lúc nào. Khi tủ hết chỗ chứa, garage quá bề bộn thì cả nhà xúm vô dọn mở cửa garage bán sale. Cuối tuần đi trên đường thường thấy có bảng đề “Garage Sale”, kèm mũi tên chỉ dẫn vào tận từng nhà. Vào đây mua hàng thật thú vị, hàng gì cũng có bán rẻ rề. Món nhỏ nhỏ 50 cent, 1 USD, nhiều lắm thì vài USD/món. Một cái áo sơmi còn mới nguyên, giá 49 USD, sale còn 16 USD; nhưng bán ở garage sale chỉ có 1 USD có lẻ vì nó đã bị chủ nhà bỏ quên lâu quá, lỗi thời. Bạn tôi kể, thích nhất là mua được những bức tranh đẹp, hay đồ trang trí nhà cửa “made in Italy” hay Japan hẳn hoi, giá chỉ vài USD. Cô bạn chẳng giấu giếm gì khi cho biết lúc mới qua Mỹ, 90% đồ dùng trong nhà của cô là hàng mua từ garage sale. Bây giờ khá giả hơn, sắm đồ mới, cô lại dọn ra garage sale… Bởi vậy không ai biết được vòng đời của mấy món hàng bán ở đây đã được sale bao nhiêu lần, qua bao nhiêu chủ…; chỉ thấy, ưng ý, là lạ là mua.
Hai ngày cuối tuần cả nhà bán được chừng trăm USD là nhiều, dưới cái nóng hầm hập của garage, nên nhà giàu thường không chọn cách sale hàng kiểu này mà dọn ra đường cho không các tổ chức từ thiện. Các cơ quan này, gom hàng về làm vệ sinh rồi lại tập kết hàng vào các cửa hàng “Good Will”. Những nơi này bán rẻ như cho, chịu khó sưu tầm cũng được những món hàng thật đã, tôi mua được một bộ nồi Vision ba cái mới nguyên ở một Good Will tại San Diego chỉ 3 USD, một bộ dao 12 món chỉ có 2 USD… Các tổ chức này thường gửi thư đến từng nhà, thông báo rõ lịch hàng tuần, hàng tháng họ sẽ đi gom hàng để chủ nhà chuẩn bị.
Một dạng sale khác cũng rất phổ biến ở Mỹ là “moving sale”, bán sale tất cả đồ dùng trong nhà. Thường khi nhà bị nhà băng kéo (ngân hàng thu hồi khi chủ nhà chậm trả tiền góp nhà quá ba tháng), hoặc phải dời nhà đi nơi khác… Dù rất thèm muốn nhiều bộ bàn ghế, tủ giường nơi đây tôi cũng đành chào thua. Ngoài ra estate sale, cũng tương tự moving sale, nhưng chỉ khác là chủ nhân không di chuyển mà lìa xa cõi đời.
Với đủ kiểu sale như trên, thì dù giàu hay nghèo ai cũng có cơ hội mua sắm, ai cũng được khuyến khích mua sắm… Mua sắm càng nhiều thì kinh tế càng phát triển, đó là mong muốn không chỉ của người dân mà Chính phủ Mỹ đang tìm mọi cách cổ vũ để phục hồi nền kinh tế. Cũng vì thế mà kỹ nghệ sale của Mỹ không muốn bỏ sót một khách hàng nào. Tôi bị “thuốc” cũng phải thôi!


Lòng Mẹ Guitar solo)

Bé gái chơi guitar năm nay 12 tuổi, sinh ra và lớn lên ở Mỹ , tên Mỹ là Virginia tên Việt Nam là Mận .


The Last Waltz Engelbert Humperdinck


Take me to your heart !

” Hãy dẫn lối anh đến trái tim em, hãy đưa anh đến linh hồn em “


Bánh tráng nướng Đà Lạt

Bánh tráng nướng Đà Lạt

Có lẽ trong cái lạnh mới thấy thèm chút gì đó âm ấm cho cõi lòng thêm bớt co ro. Thành phố sương mù luôn có những màn sương mỏng phủ lên mỗi khi đêm về. Có lẽ cũng vì cái không khí se se lành lạnh đó, mà mọi ngõ đường mọi quán xá ở Đà Lạt lúc nào cũng thoang thoảng thơm lừng mùi nướng, mùi khói. Phải nói không nơi đâu có món bánh tráng nướng ngon như ở thành phố cao nguyên đầy gió núi sương trời này.
Thành phố ngàn hoa cũng là thành phố của tình yêu. Luôn dập dìu lãng mạn những cặp tình nhân sóng sánh cùng nhau. Tay trong tay như nắm chặt hơn để truyền cho nhau những làn hơi ấm áp trong đêm sương lành lạnh. Hay những sáng sớm sương mù chưa kịp tan. Đêm về Đà Lạt lung linh lãng mạn mờ mờ ảo ảo, làm Đà Lạt thêm phần quyến rũ nhiều hơn. Cũng vì thời tiết bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông ở cao nguyên lúc nào cũng thấy sắc se cái lạnh. Mọi ngã đường băng qua len lỏi dưới những rặng thông già. Luôn có những khúc quanh co hờn dỗi. Có lẽ vì lành lạnh đó cho nên quán xá ở Đà Lạt về đêm thường mang hương vị nồng nàn ấm áp của lửa, cả cái vị cay cay mùi khói. Nên những món nướng luôn đem lại cảm giác ấm áp khi đêm về ngập tràn gió lạnh sương khuya.
Ở đâu đâu trong đêm Đà Lạt cũng đều có bán những món nướng, muôn hình vạn trạng trong cả hàng ngàn món ăn ngon của các vùng miền tổ quốc đều được hội tụ về đây. Tạo nên một bản sắc văn hóa trong nghệ thuật ẩm thực rất riêng cho thành phố du lịch nổi tiếng này, món nướng nào cũng hãy còn rất ấm nóng hôi hổi. Nhưng có một món ăn hoài hổng ngán, càng ăn càng khoái, đó là món bánh tráng nướng ở Đà Lạt, giòn rụm tưởng chừng như một âm thành ầm ì của thác nước ở đâu đó đang dội về đằng sau vành môi bạn.

Chưa ăn chưa biết, biết rồi chưa ăn, nhưng chỉ cần nhìn thấy ai đó đang nướng bánh trên vỉ than hồng trong đêm lạnh, mùi bánh thơm lừng phồng phồng như mu bàn tay ấm nống, cũng gợi cho lòng thèm muốn chút hơi ấm trong đêm rồi… Chao ôi Đã phồng phồng nóng giòn như bỏng cả mắt mũi. Mùi thơm mằn mặn của thịt xay vừa chín tới, mùi ruốc sấy thơm lừng, hương thơm và béo béo trứng chút, chút gì ngầy ngậy của bơ mà khó thể nào ngó lơ chỗ khác, thơm phưng phức mùi hành phi lẫn vị cay cay mùi sa tế… Ngon không như không thể nào thơm ngon hơn thế nữa.
Nghe nói thôi chứ chưa dám khẳng định rằng món bánh tráng nướng này bắt đầu từ đâu nữa. Có thể là ngoài Huế quê tôi mà ai đó trót ham mê và lỡ ghiền đem theo món bánh tráng nướng ngon lành này lên với phố núi, nên khi đến Đà Lạt lành lạnh như trời Huế mùa Đông thì nét tương đồng của ham mê luôn đồng hành cùng cảm xúc hương vị bánh tráng thơm thơm mùi nướng? Có người đồn rằng “Ngày trước, hình như là ngày trước đó nữa. Có một chàng trai miền Trung đem lòng yêu mến một cô gái ít nhớ lại hay quên, nên mỗi khi muốn nhắc cho nàng nhớ, đã cố công làm nên món bánh tráng nướng, mà mỗi khi ăn đều toát ra những âm thanh, như thầm ý nhắc cho nàng hay nhớ ít quên cho chàng nhờ chút xíu nào đó?

Không biết không hay về mọi sự bắt đầu của món ăn này. Nhưng có một điều muốn ăn thì cũng phải tốn khá nhiều thời gian và cả sự tinh tế trong nghệ thuật pha chế và nướng bánh tráng. Để sau bánh tráng vẫn giòn tan vỡ vụn khi đưa vào miệng. Mà vẫn nồng nàn ngọt ngào đủ đầy các hương vị ở trên cái bánh.
Trước hết bánh tráng sẽ được nướng sơ sơ trên bếp than hồng, sau đó là quét thêm một lớp mỡ hành, ruốc hay thịt xào. Khi bánh tráng bắt đầu nở giòn, sẽ quét thêm một lớp trứng gà hoặc trứng cút chi chi đó nữa, miễn sao ưng ý vừa miệng người ăn là được lắm rồi. Chịu khó ngồi chờ đến khi bánh và trứng chín đều, hãy nhanh tay gập đôi hoặc cuộn chiếc bánh lại và thế là chiếc bánh được hoàn thành rất hấp dẫn. Món này phải ăn khi còn nóng, chịu khó phù miệng thổi phù phù cho bánh nhột nhột bớt giòn chút xíu, chấm với tương ớt thì “Ngon đến nỗi quên cả Nhỏ hàng xóm…”

banh

Xin lỗi! Bánh quá thơm ngon lại còn giòn rụm nữa, nên vòng vo hoài mà môi miệng vẫn chưa muốn rời chiếc bánh còn nóng trong tay. Bánh ngon giòn mang cả làn hơi ấm áp đang lan tỏa vào đêm phố núi bình yên.

Còn ai đó sợ quá giòn làm mòn hàm răng trắng sáng của mình thì gọi món bánh tráng trứng nướng mỡ hành dẻo, tương ớt quét vô bánh khi nướng, ăn dai dai cũng rất ngon. Chỉ một nỗi là không nghe được những âm thanh giòn như đại bác bên Lybi vọng về trong đêm trường vắng lặng của Đà Lạt mà thôi. Nói nhỏ nhỏ đủ cho ai đó vừa nghe thôi nha. Món bánh tráng nướng dẻo muốn ăn là cứ tản bộ vòng quanh bờ Hồ Xuân Hương và các con đường Vạn Kiếp, Bùi Thị Xuân và quanh khu chợ đêm Đà Lạt mới có. Còn bánh tráng nướng giòn tan mang âm thanh của phố núi thì tìm đâu đâu trên mọi con đường Đà Lạt cũng có bày bán.

Điều thú vị nhất và lãng mạn nhất cao nguyên đó là phải đi ăn món bánh tráng này trong đêm mới ngon. Chuyện lạ tưởng chừng như là xa lạ. Nhưng không hề xa lạ với người ham mê món ngon này. Bởi nhìn ai đó đang ăn bánh tráng nướng giòn hay nướng dẻo. Cái miệng khéo chu lên tròn vo tròn vắt để thôi phù phù… mới nghe ai đó thổi phù phù thôi là đã thấy nhồn nhột cả đôi tai mình rồi.
Đà Lạt mộng mơ, một Đà Lạt thương nhớ trong hoài mong và trong cả đợi chờ. Đà Lạt vẫn ấm áp những vòng tay nồng nàn ấm áp của những đôi tình nhân và Đà Lạt, vẫn ấm áp cho những ai còn đơn độc với những món nướng thơm lừng bừng lên trong đêm. Đà Lạt sương lạnh tình nồng mênh mông thênh thang với những khúc quanh co hờn dỗi.

Một mai bất chợt khi gió lạnh mùa sang khe khẽ, bỗng thấy thèm chút lất phất nhẹ như  sương sớm của Đà Lạt, bỗng thấy nhớ những âm thanh béo ngậy giòn tan đang vang lên trong sâu thẳm cõi lòng. Một món ngon giòn ta nhưng chưa từng vỡ vụn… vẫn ấm lắm khi đêm về thoang thoảng đâu đó mùi vị bánh tráng nướng thơm lừng… Chao ôi! Nhớ ơi là nhớ.


Để nhớ một thời không dễ quên !

Để nhớ một thời không thể quên !

         Gia đình Uyển Vi – Saigonese, nhỏ nhất trong ảnh. Nguồn: Gia đình

Thư  con gái Sài Gòn gửi người cha đã khuất
Trân trọng giới thiệu bài viết của bạn đọc nick là Saigonese, tên thật là Uyển Vi. Đọc lên bạn sẽ thấydiễn biến của cuộc chiến hơn 30 năm (1954-1975) và thời thế sau đó đi qua một gia đình Việt Nam cũng như  hàng triệu người Việt khác. Đọc để thấy hình ảnh của chúng ta và gia đình của chúng ta trong đó.
Cảm ơn tác giả rất nhiều. Thay mặt cho cộng đồng THVT, xin gửi đến gia đình Uyên Vi những lời chia sẻ, mong gia đình luôn hạnh phúc và bình an.

Sài Gòn, 30/10/2011

Thế là Ba đã ra đi được 10 ngày. Cảm giác “ăn cơm với cá” khi mồ côi cha là như thế này đây sao? Bây giờ con mới nhận thấy cảm xúc của một người khi cha họ không còn nữa.

Lúc chú Nguyên mất, Diễm ôm lấy con òa khóc “em mồ côi cha rồi chị ơi”. Khi hỏi thăm Bảo Ngọc về sự ra đi của ba nó lúc chúng con gặp lại nhau bên Mỹ, nó chỉ lắc đầu bảo “thôi tụi mình đừng nói về chuyện đó nữa”. Còn Phi Thủy, trong một email dài cám ơn bạn bè đã chia buồn khi ba nó mất, đã kể rằng, mình đã hối hận như thế nào khi thường gửi con cái đến cho bố mẹ trông giúp, mà quên rằng ông bà cần phải đi chơi cho vui vẻ lúc tuổi già, v.v.

Tâm trạng của tất cả những đứa con gái mất cha này dường như đều hàm chứa sự nuối tiếc về điều gì đó chưa trọn vẹn với người đã khuất.

Con tự vấn lòng mình: liệu có điều gì chưa được trọn vẹn nơi con khi Ba ra đi?

Từ năm 1972, gia đình mình may mắn được sống quây quần gần những người làng đã di cư từ Bắc vào Nam từ những năm 1954. Những mẩu chuyện mọi người trao đổi với nhau trong những lúc gặp mặt, cho con hiểu thêm về hoàn cảnh gia đình mình.

Ba là con một của một ông bà Hương hiếm muộn ở Xứ Đạo Kẻ Nấp, Nam Định lấy Má là con gái của một Hương sư cùng làng. Thời buổi loạn lạc, Tây vây làng dân cũng chạy mà Việt Minh đến cũng chẳng dám ở.

Thời khắc định mệnh đến, hầu như nhà nào trong làng cũng bỏ chạy vào Nam, chỉ cho một vài người ở lại giữ hương hỏa. Ba Má đưa người con gái đầu lòng vào Nam, không hề ngờ rằng lần ra đi ấy có thể là vĩnh viễn không có cơ hội quay về.

Ba theo đường binh nghiệp, Má lẽo đẽo theo chồng khắp các khu gia binh từ Qui Nhơn, Kon tum tới Sa đéc, cuối cùng là Sài gòn nơi Ba làm lính văn phòng trong Bộ Tổng Tham mưu. Chín đứa con ra đời ở khắp các vùng miền đất nước theo bước chân người lính.

Thế nhưng ký ức tuổi thơ lâu nhất còn sót lại trong con về Ba là những mùa hè tại Long Giao, nơi gia đình đi kinh tế mới sau hòa bình.

Những đứa nhỏ như con được ở lại Sài gòn đi học, chỉ tới mùa hè mới xuống Long Giao phụ Ba và các anh chị. Đó là những buổi sáng còn ướt sương, gùi theo mấy lon guigo cơm, đứa con gái út là con lẽo đẽo theo Ba và các anh chị lên đồi phụ làm rẫy. Đầu óc non nớt, con chẳng cảm thấy được tâm trạng u uẩn thất trận của người chỉ chuyên cầm bút vẽ nay chuyển sang cầm cuốc chỉ vì thời cuộc đổi thay.

Tuy vậy, con vẫn nhận ra chút ngậm ngùi trong những câu chuyện giữa ba và chú Tuân, người phi công trốn tù, sống cùng với mẹ già và 4 đứa con trai nhỏ ở rẫy bên cạnh.

nhc3a0-e1bb9f-khu-kinh-te1babf-me1bb9bi-e1bb9f-dak-lakĐất đai như chưa quen với con người, mùa màng thất bát liên miên, trồng hoa màu nhưng mọi người vẫn phải ngóng Má tiếp tế gạo từ Sài gòn lên. Hôm nào Má bọc gạo quanh người, may mắn không bị bắt thì bữa cơm độn còn nhìn thấy bóng hạt gạo, còn không thì nồi “cơm” chỉ toàn thấy bắp, khoai và chuối. Đến bây giờ con vẫn còn cảm thấy ghét cái vị vô duyên của cơm độn chuối.
Buổi giao thời hỗn quân hỗn quan, mạng con người thật nhỏ bé mong manh. Con dao lớn dùng chặt tre treo trên một chiếc xe tải rơi xuống đầu chị Oanh khi người tài xế tránh mấy chú bộ đội mới từ rừng ra, chưa biết luật lệ, đi tràn cả ra mặt đường. Khi mất, Chị chỉ mới 14 tuổi.

Vùng đất đau thương như chẳng còn gì để níu chân người, vài năm sau Ba cũng gói ghém đưa Bà nội về lại Sài gòn. Từ đó, hình ảnh của Ba gắn liền với chiếc xích lô mướn, mặt bạc đi vì nắng gió.

Phải mất một thời gian dài, Ba mới mua được chiếc xe xích lô ấy. Nhà mình phải nới cửa ra để ban đêm mang xe vào nhà cho an toàn. Khi kê khai lý lịch đi học, con đã rất ngần ngại nhưng rồi cũng đặt bút khai ở phần “Cha” rằng “đi lính ngụy trước 75” rồi “làm rẫy và đạp xích lô sau 75”.

Cuộc đời một người Cha được mô tả vỏn vẹn như thế trong sổ liên lạc của đứa con. Cái mốc của cuộc đời một con người là năm 1975, thời khắc có thể làm thay đổi cả một phận người!

Anh Giang và bà Nội mất, Ba vẫn còn gắn với chiếc xe ấy. Nó chỉ được bán đi, sau khi Ba bị tai nạn nặng lúc đi đám cưới bên xóm Mới. Không còn đạp xích lô, con cảm nhận được Ba rất muốn giúp đỡ mọi người trong những việc có thể kiếm ra tiền như để bù đắp lại.

Ba đã cố khắc chiếc khuôn bánh dẻo bằng gỗ, khi nhà mình làm bánh trung thu đẻ bán; thiết kế những mẫu áo cho con ngồi thêu cho dù con nhăn nhó rằng những mẫu này vẽ thì đẹp nhưng không dễ áp dụng vào các mũi thêu.

Con cũng cằn nhằn lúc Ba làm ố những chiếc áo của khách khi cố giúp con đục lỗ những tấm lưới thêu trên áo bằng mũi hàn; rồi con than phiền “nghệ thuật của Ba là vị nghệ thuật chứ không vì nhân sinh”.

Tới khi con ra ngoài đi làm việc văn phòng, Ba là người dắt chiếc xe Chaly cho con mỗi sáng chiều. Ba miệt mài gò lưng mài dao cho các bếp ăn, rồi cặm cụi với các bức tranh và bảng chữ cho các trường Mẫu giáo để kiếm thêm vài đồng. Những cố gắng này chỉ chấm dứt khi Ba phát bệnh từ cuối năm 1999.

12 năm trời, căn bệnh cứ từng chút một tàn phá cho tới khi Ba ra đi. Ba thường khoe với mọi người rằng mình mắc căn bệnh Parkinson mà những người nổi tiếng như Đức Giáo hoàng John Paul II, Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, v.v.

Lòng vẫn tự dặn rằng phải rất kiên nhẫn với người bệnh, nhưng con vẫn không tránh khỏi những lúc cáu gắt vì phải lau dọn những khi Ba xé tả vì quá bức bối. Sự mỏi mệt khi chăm sóc Ba làm con đôi khi vô tình quên bẵng rằng bản thân người bệnh chẳng hề muốn nằm đó bất lực, phụ thuộc vào người khác cho dù đó là vợ con mình.Trong tháng cuối cùng, Ba chỉ lay lắt tồn tại nhờ vào oxy và những chai đạm, sữa và đường truyền vào người. Đã có những lúc con chỉ muốn ngưng những nguồn sống cuối cùng này lại để Ba không phải chịu đau đớn từ những vết thương lở loét do nằm một chỗ quá lâu.

gia-c491c3acnh-uye1bb83n-vi-c491c3b3n-tet-2003-2 gia đình Uyển Vi đón Tết 2003. Lần cuối với cha. Nguồn: Gia đình cung cấp.

Cảm giác tội lỗi vẫn luôn dai dẳng trong con vì đã từng cầu nguyện cho Ba sớm ra đi để thân xác Ba khỏi chịu đau đớn.

Vẫn biết ra đi là một sự giải thoát cho Ba, nhưng sao con thấy mất mát lớn quá. Khi chiếc quan tài rớt xuống để vào lò thiêu, con sụp xuống vì như có ai đó thụi cho một cú chí mạng vào bụng.

Đau lắm, nhưng con vẫn thấy mình còn may mắn hơn chị Duyên và Thi, người chị và đứa em trai đã không được ở bên Ba trong giờ phút tiễn biệt. Để lại Ba nơi ấy cho họ “làm việc”, lòng con đau như cắt.

Với việc “đi biển” này thì dù là đàn ông hay đàn bà, đã mang kiếp con người thì ai cũng phải “mồ côi một mình” trong lúc này.

Chiều hôm ấy, Ba về lại nhà trong chiếc hũ đá trắng, con cố gắng hết sức để có thể nhìn vào chiếc hũ vô tri nơi chứa đựng những gì còn sót lại của một con người.

“Ra đi là để trở về” và “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”, con nhìn thấy những câu này trên màn tang và những tấm trướng treo trong nhà. Ngày mai, gia đình sẽ đưa Ba ra Nhà Thờ làm lễ và gửi Ba lại đó, nơi ấy Ba sẽ gặp lại Ông Bà nội, chị Oanh và anh Giang cùng những người hàng xóm và bà con đã “định cư” từ trước.

Con tự hỏi nơi ấy, mọi người sẽ chào hỏi nhau thế nào? Có thể nào sẽ là “Ủa, sao tới sớm vậy?” hay “Sao hoài, giờ mới tới, làm đợi muốn chết” hoặc “Đi đường có vất vả lắm không?”

Nhưng có một điều con có thể chắc chắn là Ba sẽ bình yên nơi ấy, không phải vương tục lụy của những sân, si, hỉ, nộ, ái, ố như ở nơi này. Rồi hàng tuần, cả nhà sẽ ghé thăm Ba sau khi tan lễ Chủ nhật. Ba sẽ vui như chẳng hề đi đâu xa.

Điều an ủi lớn nhất là hậu sự của Ba diễn ra suông sẻ từ khi Ba nằm xuống cho tới giờ phút này. Có rất nhiều vòng hoa thật đẹp được gửi đến như thể mọi người biết rằng con người nghệ sỹ trong Ba rất thích những gì đẹp đẻ, xinh tươi.

Quý giá nhất là tấm lòng của những người đến viếng thăm đưa tiễn. Những người sui gia đều đến viếng dù ở xa, Ông bà Phượng và cả gia đình đều tới dù các cụ tuổi đã cao và huyết áp không ổn định.

Cậu Vệ bỏ luôn đám cưới của cháu ngoại, lặn lội từ Đà lạt về tiễn Ba, cả gia đình Cậu Đôn, Dì Hiền và bác Dong luôn túc trực từ lúc Ba nằm xuống cho đến lúc Ba quay về nhà trong chiếc hộp đá trắng.

uye1bb83n-vicô bé ngày nào ở hình bên trên ,bây giờ đã là một thiếu phụ chính chắn .

Có rất nhiều người đã tới viếng với những câu chuyện về những điều Ba đã làm cho họ mà con chưa từng nghe. Bây giờ thì con đã biết mình sai khi hay trách Ba chỉ lo việc bao đồng. Trong khi với Ba, đó chỉ đơn giản là việc phải làm.
Trên thực tế thì những người con cái như con đây lại chính là người được hưởng phúc từ những việc “bao đồng” như thế. Con không biết đã có bao nhiêu người cười khi Ba sinh ra, nhưng con được chứng kiến rất nhiều người khóc khi Ba ra đi.

Lời cầu xin cuối cùng của con là xin Ba luôn phù hộ gia đình và giúp cho anh em chúng con luôn yêu thương hòa thuận.

Xin Chúa thương xót và sớm đưa Ba về hưởng phước Thiên đàng.

Con gái út Uyển Vi.

Tác giả: Saigonese Uyển Vi