Còn chút gì để nhớ !

Còn chút gì để nhớ của nhà thơ giang hồ Vũ Hữu Định kết hợp với những nốt nhạc tài hoa của nhạc sĩ họ Phạm, đã biến một phố nhỏ vùng cao buồn tênh thành một trong những địa danh lãng mạn nhất của thi ca Việt Nam.Người yêu thơ nói, nhờ Vũ Hữu Định mà Pleiku thành danh phố núi. Người yêu nhạc thì lại tin rằng, Phạm Duy đã đem phố núi đến với đông đảo công chúng khi phổ nhạc vào thơ.

Người ta nghe trong đó tiếng gió, tiếng suối, tiếng đá, tiếng cây rừng… Âm thanh trong trẻo và phóng túng của đại ngàn tràn ngập trong một bài hát mà lạ lùng thay, ca từ lại mềm mại như sương. Còn chút gì để nhớ của nhà thơ giang hồ Vũ Hữu Định kết hợp với những nốt nhạc tài hoa của nhạc sĩ họ Phạm, đã biến một phố nhỏ vùng cao buồn tênh thành một trong những địa danh lãng mạn nhất của thi ca Việt Nam.

Những cuộc tao ngộ với thi nhân đã đem lại nhiều cảm xúc khác nhau cho Phạm Duy. Một điều khiến người yêu cả nhạc và thơ mến mộ, đó là trong hầu hết trường hợp, Phạm Duy chưa bao giờ làm biến dạng hồn vía của bài thơ. Thậm chí, bài thơ càng như được chắp cánh để bay về hướng mặt trời, long lanh tươi mới. Đơn cử Ngậm ngùi của Huy Cận – bài thơ lục bát với nhịp điệu chậm rãi, sau khi được phổ nhạc đã trở thành một kiệt tác, được bao nhiêu thế hệ ca sĩ hát từ hàng chục năm nay. Để làm được điều đó, hẳn Phạm Duy phải có một sự đồng cảm đặc biệt với các nhà thơ để nắm được tận cùng ngóc ngách vi diệu nhất của từng câu chữ, như ông từng nói về Ngậm ngùi: “Nguyên bài thơ đã là một giao lưu giữa thơ Đường và thơ lục bát Việt Nam rồi… Về phương diện thẩm âm, thẩm mỹ, bài đó xưng tụng một cái đẹp sắp sửa mất, đang mất hay sẽ mất, với lời thơ êm ả, bùi ngùi, thương tiếc, với nhạc điệu ôm ấp, vỗ về, an ủi. Hãy trả lại chúng tôi mộng bình thường mà có lẽ chúng tôi đã, đang hay sẽ mất”.
Trở lại Còn chút gì để nhớ và mối duyên kỳ lạ của Phạm Duy với nhà thơ Vũ Hữu Định, Phạm Duy hồi tưởng:

“Năm 1972, tôi đi Pleiku để nghiên cứu nhạc Tây Nguyên. Trong một tuần lễ ở đó, tôi được gặp vài nhà thơ trẻ bị động viên đang đóng quân tại miền biên giới này. Lúc đó tỉnh lỵ Pleiku còn nhỏ hẹp lắm. Một nhà thơ trẻ, Vũ Hữu Định, đã mô tả cái thành phố đi dăm phút đã về chốn cũ… trong một bài thơ rất dễ thương. Tôi phổ nhạc ngay lập tức, không thêm thắt hay sửa đổi một chữ nào trong bài thơ. Cũng vì tôi đang nghiên cứu nhạc Thượng nên tôi dùng ngay ngũ cung có bán – cung (do mi fa sol si do) trong phần giai điệu.

Phố núi cao, phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
Anh khách lạ đi lên đi xuống
May mà có em đời còn dễ thương.
Em Pleiku má đỏ môi hồng
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
Nên tóc em ướt và mắt em ướt
Nên em mềm như mây chiều buông.
Phố núi cao phố núi trời gần
Phố xá không xa nên phố tình thân
Ði dăm phút đã về chốn cũ
Một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng
Xin cảm ơn thành phố có em
Xin cảm ơn một mái tóc mềm
Mai xa lắc trên đồn biên giới
Còn một chút gì để nhớ để quên

(Vang vọng một thời – mùa hè, 2012).
Có lẽ, mối duyên của nhạc sĩ Phạm Duy và nhà thơ Vũ Hữu Định chỉ đan kết qua thơ nhạc, giống như chính cái tên bài hát vậy: Còn chút gì để nhớ. Cuộc gặp gỡ thì ngắn ngủi. Đến lúc Phạm Duy trở về sống ở quê hương thì Vũ Hữu Định đã tạ thế lâu rồi. Thế nhưng, cho tới tận bây giờ, ông lão 93 tuổi Phạm Duy vẫn nhớ y nguyên dáng vóc của Vũ Hữu Định thời bấy giờ. Trong con mắt Phạm Duy, thi sĩ gốc Huế họ Vũ, tên thật là Lê Quang Trung (1942-1981) là người hồn hậu, song cách nói chuyện thì không giống ai cả. Lần đầu gặp gỡ Phạm Duy, trên khuôn mặt của Vũ Hữu Định có chút ngượng ngùng, bối rối, nhưng chỉ được một lát sau là bộc lộ vẻ sảng khoái ra liền. Hai người ngồi uống trà đàm đạo. Hỏi nhạc sĩ Phạm Duy: “Lên Tây nguyên mà uống trà ạ?”. Ông cười, bảo: “Tại tôi không biết uống rượu nên được tha”. Một cuộc trà đậm hương rừng núi bạt ngàn…

Nhiều người cho rằng, tên tuổi Vũ Hữu Định bắt đầu phổ biến khi bài thơ Còn chút gì để nhớ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Thực tế, chính Phạm Duy cũng không ngần ngại thừa nhận đóng góp lớn lao từ bài thơ đối với sự nghiệp nghiên cứu âm nhạc của ông. Phạm Duy khẳng định: “Vũ Hữu Định đã đưa tôi đến âm nhạc của miền sơn cước”. Cả đời Phạm Duy say mê tìm hiểu nhất là những giá trị thuộc về văn hóa dân tộc. Mặc dù được học hành ở Pháp, nhưng giống như lời Giáo sư Trần Văn Khê, Phạm Duy biết chọn lọc giữa mới mẻ và truyền thống. Việc phổ nhạc cho thơ cũng là một cách thể hiện sự trân quý giá trị văn hóa của ông. Phạm Duy đã có rất nhiều trường ca, tổ khúc nổi tiếng. Không ngừng lại ở đó, ông đã và đang ngày đêm miệt mài hành trình gieo tiếng nhạc cho thơ. Có thể nói, riêng về lĩnh vực này, Phạm Duy được xếp ở vị trí bậc thầy trong làng tân nhạc Việt Nam.

Năm tháng trôi đi, ẩn sau mỗi khuôn nhạc, bao mối tình tri âm tri kỷ vẫn còn rưng rưng lay động tâm hồn người yêu nhạc…


‘Thương nhớ đồng quê’ phim và truyện !

Tác Giả: Nguyễn Huy Thiệp

Tôi là Nhâm. Tôi sinh ở làng quê, lớn lên ở làng quê. Ði trên đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng. Xa mờ là vòng cung Ðông Sơn, trông thì gần nhưng từ làng tôi lên đấy phải năm mươi cây số. Làng tôi gần biển, mùa hè vẫn có gió biển thổi về.
Tháng Năm âm lịch là mùa gặt. Mẹ tôi, chị Ngữ, chú Phụng với tôi ra đồng từ mờ sáng. Ba người gặt, còn tôi gánh lúa.
Tôi gánh lúa về nhà, đi men theo đường mương. Nắng gắt lắm, ngoài trời có lẽ phải bốn mươi độ. Bùn non bên vệ mương nứt nẻ, bong cong lên như bánh đa.
Tôi mơ mộng lắm, hay nghĩ. Bố tôi là thiếu tá, cán bộ trung cấp kỹ thuật hải quân, vẫn đi ra các đảo lấp ra đa với máy thông tin, mỗi năm về phép một lần. Bố tôi thuộc hết tên các đảo. Mẹ tôi chẳng bao giờ đi xa khỏi làng. Mẹ tôi bảo: “Ở đâu chẳng thế, chỗ nào cũng toàn là người”. Chú Phụng thì khác, chú Phụng đã đi nhiều nơi, chú Phụng bảo tôi khi chỉ có hai chú cháu với nhau: “Trong thiên hạ không phải chỉ có người đâu, có các thánh nhân, có yêu quái”. Nhà chú Phụng toàn phụ nữ: mẹ vợ, vợ, bốn đứa con gáị Chú Phụng đùa:”Chú đẹp giai nhất nhà”.
Chị Ngữ là chị dâu tôi, lấy anh Kỷ. Anh Kỷ đang làm công nhân trên mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quì dạy cấp một ở làng. Hồi trước tôi học ông giáo Quì. Ông giáo Quì có nhiều sách. Mọi người vẫn bảo ông là “đồ gàn”, lại bảo ông là “lão dê già”, “Quì dê”. Ông giáo Quì có hai vợ, vợ cả sinh ra chị Ngữ, chị đâu tôi. Vợ hai là thím Nhung, vừa là thợ may, vừa bán quán, sinh ra thằng Văn bạn tôi. Thím Nhung trước kia là gái giang hồ ở Hải Phòng. Ông giáo Quì lấy về làm vợ nên uy tín chẳng còn gì.
Tôi gánh được chục gánh lúa thì đầy ùn cả sân. Tôi gọi cái Minh dọn rơm để có chỗ xếp lúa. Cái Minh em tôi người nhỏ quắt, đen đúa nhưng mắt sáng, lại dai sức. Cái Minh chui ở bếp ra, mặt đỏ gay, mồ hôi ướt đầm hai bên vạt áo.
Tôi ra bể nước mưa múc đầy cả một gáo dừa uống ừng ực. Nước mát lịm. Mẹ tôi vẫn hay chan cơm nước mưa ăn với cà muối. Mẹ tôi không ăn được thịt mỡ.
Sân nóng hừng hực, hơi nóng mờ mờ bốc lên ngây ngất. Mùi lúa ngột ngạt.
Ðường làng đầy rơm rạ phơi ngổn ngang. Tôi đi qua cổng nhà dì Lưu thấy có đám người xúm đông. Cái Mị con dì Lưu gọi tôi:”Anh Nhâm !”. Tôi vào thấy ông Ba Vện bưu điện xã đang nhét thư báo vào túi bạt sau yên xe đạp. Cái Mị bảo tôi:”Có điện của chị Quyên ngoài Hà Nội”.
Dì Lưu là em mẹ tôi, bị liệt mấy năm nay. Chú Sang chồng dì Lưu đang công tác bên Lào, chú là kỹ sư cầu đường. Anh trai chú Sang ngoài Hà Nội có con gái là Quyên đi học đại học bên Mỹ. Hồi bé Quyên đã có lần về thăm quê.
Tôi cầm bức điện đọc:”Cô Lưu cho người ra ga đón cháu Quyên 14 giờ ngày… “. Tôi hỏi cái Mị:”Chiều nay à?”. Cái Mị gật đầu.
Dì Lưu nằm nghiêng tựa lưng vào tường. Lúc nào dì Lưu cũng nằm như thế đã sáu năm nay. Dì Lưu bảo tôi:”Nhâm giúp dì ra đón em Quyên nhé”. Tôi bảo:”Nhà cháu đang gặt”. Dì Lưu bảo: “Ðể đấy đã. Gặt ở khoảnh nào?”. Tôi bảo:”Gặt ở khoảnh gieo bào thai hồng”.
Cái Mị cầm bức điện ra đồng để nói với mẹ tôi. Cái Mị cùng tuổi cái Minh em tôi nhưng cái Mị trắng hơn, đậm người hơn. Nó hay nói, hay làm nũng. Cái Mị bảo:”Anh Nhâm ơi, hôm nào anh làm cho em cái lồng lấy ổi”. Lồng lấy ổi làm bằng cây nứa tươi, đầu lòng hơi giống hom giỏ, có hàm răng mở ra. Tôi bảo:”Em kiếm nứa đi”. Cái Mị bảo:”Em có rồi. Mai anh làm nhé”. Tôi nhẩm việc, thấy kín hết chỗ từ sớm đến khuya. Cái Mị bảo:”Mai đấy”. Tôi bảo:”Ừ”. Nhà cái Mị có ba cây ổi, nó trèo ổi gãy cành có lần suýt ngã. Chú Phụng đọc tờ điện báo nói: “Sao lại bưu cục S.N.N? Thế là nghĩa lý gì?”. Mẹ tôi bảo:”Dì Lưu đã nhờ thì Nhâm đi đi. Cái áo mới mẹ để ở hòm, lấy mà mặc”. Tôi bảo cái Mị:”Em về đị Anh phải gặt đến trưa, ăn cơm rồi đi luôn”.
Cái Mị đi về một mình. Bóng nó cứ ngụp dần trên cánh đồng xa tít tắp đang gặt nham nhở. Tôi cầm liềm. Quơ một vòng sát chân rạ. Giật mạnh. Bước sang trái. Quơ liềm. Giật mạnh. Lại bước sang trái. Lại quơ liềm. Lại giật mạnh. Cứ thế. Cứ thế mãi. Ðất trên mặt ruộng ẩm ướt. Những con châu chấu nhỏ xíu nhảy lách tách.
Ðến giữa trưa thì đồng vắng lắm. Nhìn ra chỉ có bốn người nhà tôi giữa đồng. Mẹ tôi ngồi bên vệ cỏ nhổ gai ở chân. Chị Ngữ đội nón, khăn trùm mặt, quấn xà cạp đến tận mắt cá chân, ngơ ngẩn nhìn về dãy núi xa phía vòng cung Ðông Sơn. Chú Phụng xếp lúa để gánh về. Chú Phụng hỏi:”Mày về luôn chứ?”. Tôi khô khốc miệng, không nói được, chỉ gật đầu. Hai chú cháu tôi mỗi người một gánh đi về. Chú Phụng đi trước, tôi đi sau. Gánh lúa rất nặng. Tôi thấy chân mình run lắm nhưng cố bước. 100 bước. 200 bước. 1000 bước. 2000 bước. Cứ thế. Cứ thế mãi. Rồi cũng đến nhà.
Cái Minh dọn cơm cho tôi ăn rồi vội vàng mang cơm ra đồng cho mẹ tôi và chị Ngữ.
Tôi ăn cơm. Cơm có rau khoai lang luộc, cà muối, cá tép kho khế. Tôi ăn một lèo sáu bát cơm. Bây giờ đang mệt, nếu không mệt tôi đánh thông đấu gạo.
Tôi ra giếng tắm, thay quần áo. Tôi lấy chiếc áo mới ra mặc, nhưng thấy ngượng nên thôi. Tôi mặc chiếc áo bộ đội bạc màu của bố tôi. Tôi sang nhà dì Lưu lấy xe đạp. Dì Lưu bảo:”Cháu cầm lấy ít tiền”. Dì Lưu đưa tôi năm nghìn nhưng tôi chỉ lấy hai nghìn. Hai nghìn là hơn cân thóc. Dì Lưu hỏi: “Nhâm còn nhớ mặt em Quyên không?”. Tôi gật đầu, thực ra tôi không nhớ lắm, nhưng gặp tôi cũng nhận ra.
Tôi đạp xe ra ga. Từ làng tôi đến ga tám chín cây số. Lâu lắm tôi mới đi xa thế này.
Con đường đất men theo rìa làng, qua đình làng, qua đầm sen rồi theo bờ mương ngược về huyện ly. Tôi nghĩ. Những ý nghĩ của tôi mông lung.
Tôi nghĩ
Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ
Sự bất lực của hình thức biểu đạt
Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất
Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất
Những số phận hiu hắt đầy mặt đất
Bao tháng ngày trôi đi
Bao kiếp người trôi đi
Sự khéo léo của ngôn từ nào kể lại được
Ai nhặt cho tôi buổi sáng mai này
Nhặt được ánh hoang vắng trong mắt em gái tôi
Nhặt được sợi tóc bạc trên đầu mẹ tôi
Nhặt được niềm hy vọng hão huyền trong lòng chị dâu tôi
Và nhặt được mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quê
Tôi rốt ráo bắn tỉa từng ý nghĩ
Tìm cách săn đuổi cho nó vào chuồng
Và tôi hú gọi trên cánh đồng lòng
Tru lên như con sói hoang
Tôi gắng gặt một lượm sống
Bó buộc lỏng lẻo bởi dải băng ngôn từ
Tôi hú gọi trên cánh đồng người
Tôi nhặt những ánh mắt đời
Hòng dõi theo ánh mắt tôi
Dõi vào cõi ý thức
Cõi ý thức mênh mông xa vời
Dầu tôi biết vô nghĩa, vô nghĩa, vô nghĩa mà thôi.
Ga chiều huyện lỵ vắng vẻ. Mấy con gà rã cánh đi trên sân ga. Có khoảng chục người chờ ở cổng. Vẳng lại tiếng nhạc ở băng cát-xét nhà nào đang mở. Tiếng hát của ca sĩ Nhã Phương chậm rãi:”Người đi qua đời tôi, có nhớ gì không người? Em đi qua đời tôi, có nhớ gì không em?”. Hàng phở, hàng giải khát. La liệt là những sạp hành quần áo, giầy dép, đường sữa, thuốc lá. Ô tô chạy xuôi chạy ngược.
Trời rất trong. Nắng bừng bừng. Cả phố huyện say nắng.
Tiếng còi tàu hú từ xa dè dặt, vui mừng. Có ai nói to:”Tàu về”. Cả phố huyện vẫn mơ màng. Lại có ai gắt lên:”Tàu về”. Tiếng còi tàu hâm dọa, chói óc. Mọi người bỗng nhiên rối rít, cuống cuồng. Những bà, những chị, những đứa trẻ bán hàng rong chạy ngược chạy xuôi. Tiếng rao hàng chen nhau:”Nước đây ! Ai bánh nào ! Ai nước nào ! Ai bánh nào ! Ai nước nào !”.
Tôi dắt xe đứng một chỗ nhìn. Người trên tàu ra đứng ngồi ngỗn ngang ở ngay bậc cửa. Ðây là ga lẻ. Ðồng quê tôi vô danh. Nơi tôi đứng đây vô danh.
Khoảng hơn chục người lần lượt qua cổng soát vé. Tôi nhận ra mấy thầy cô giáo cấp ba trường huyện. Bộ đội. Mấy người buôn chuyến. Mấy người thợ sắt. Một ông to béo, đeo kính râm, mắt kính vẫn còn dán tem. Một thanh niên cao, gầy, tóc rễ tre, đôi mắt tư lự. Tôi biết người này. Ðấy là nhà thơ Văn Ngọc. Sau anh Ngọc là một cặp vợ chồng già. Quyên.
Quyên xõa tóc, mặt áo pun, quần gin, đeo kính, khoác túi. Quyên trông khác hẳn mọi người bởi toàn bộ thần thái toát ra.
Quyên qua cửa soát vé, nhìn quanh. Nhận ra tôi ngay. Quyên bảo: “Tôi là Quyên. Có phải cô Lưu dặn anh đón tôi không?”. Tôi bảo:”Vâng”. Quyên cười:”Cám ơn anh. Anh là thế nào với cô Lưu? Anh tên gì?”. Tôi bảo:”Tôi là Nhâm, tôi là con ông Hùng”. Quyên hỏi: “Thế anh có họ hàng gì với tôi không?”. Tôi bảo:”Không”. Quyên gật đầu:”Tốt. Cô Lưu thuê anh à?”. Tôi nhìn cái bóng tôi sẫm trên nền xi măng. Tôi, thân phận tôi, ở đâu người ta cũng nhận là kẻ làm thuê, làm mướn.
Chiều xuống chậm. Những bóng râm chạy đuổi nhau lướt trên mặt đất. Chiều đánh rỗng nội tâm của ai hy vọng lý giải điều gì có nghĩa.
Quyên hỏi:”Nhà anh cấy bao nhiêu sào? Mỗi sào bao nhiêu thóc? Ðược bao nhiêu tiền?”. Tôi bảo:”Mỗi sào được hơn ba nồi, khoảng gần tạ, mỗi cân thóc một nghìn tư”. Quyên nhẩm:”Hai mươi triệu tấn thóc cho sáu mươi triệu người”. Tôi bảo: “Có ai chỉ nghĩ đến ăn”.
Qua đầm sen gặp sư Thiều. Sư Thiều chào. Tôi chào lại. Sư Thiều bảo:”Tôi vẫn nhớ dành cho cậu cây hồng tú cầu”. Tôi bảo:”Ðể lúc nào qua chùa con xin”. Tôi thú chơi hoa. Ông giáo Quì bảo:”Ðấy là thú của kẻ biết đời”. Sư Thiều bảo:”Có lấy ít sen về cắm lọ không?”. Ðầm sen của chùa mùa này nhiều hoa.
Tôi dựng xe đẩy thuyền cho sư Thiều. Chiếc thuyền thúng chỉ vừa người ngồi. Chèo khua nước. Quyên bảo:”Tôi muốn đi thuyền”. Tôi gọi sư Thiều.
Sư Thiều ghé thuyền vào.
Sư Thiều ôm bó hoa sen đặt lên bờ. Quyên trèo lên thuyền. Tôi đẩy thuyền ra.
Sư Thiều bảo:”Chìu người lụy ta”. Tôi cười. Tôi và sư Thiều ngồi ở trên bờ. Chiều vẫn xuống chậm. Nắng hoe vàng. Trong lòng tôi rỗng hoác, rỗng lắm, một khoảng rỗng không.
Quyên lên bờ. Sư Thiều mời ăn ngó sen. Sư Thiều hỏi: “Ngon không?”. Quyên bảo:”Ngon”.
Nấn ná một lát rồi về. Sư Thiều chào. Quyên chào lại. Quyên ôm bó hoa sen. Sư Thiều tần ngần đứng trông theo.
Tôi đi trước. Quyên đi sau. Quyên hỏi tôi về sư Thiều.


Đừng ví em là biển !


Ký sự hấp dẫn:34 năm trước dưới làn đạn Trung Quốc ở Lạng Sơn

Ký sự hấp dẫn:34 năm trước dưới làn đạn Trung Quốc ở Lạng Sơn

Dưới làn đạn Trung Quốc ở Lạng Sơn

( Trích quyển “ĐỜI, hay chuyện về những người tù của tôi”, bản thảo năm 2000-2001, của Hồ ngọc Nhuận )

…Lại nhớ hồi đầu năm 1979, khi tôi ra dự hội nghị Trung Ương Mặt Trân Tổ Quốc ở Hà Nội rồi xin đi Lạng Sơn, vô trung tâm thị xã, để chụp mấy tấm hình. Đạn Trung Quốc bắn ào ào, xối xả phía trên đầu mà tôi cứ tỉnh bơ lo bấm máy ảnh: tôi cứ tưởng đạn của phía mình, làm như với đạn phía mình thì không chết! Nếu không có một lính trinh sát của ta bị thương, ngoắc xe tôi lại đưa anh ra ngoài, chắc tôi đã ở lại thị xã lâu hơn. Để rồi biết đâu đã chẳng nằm lại như anh Takano, phóng viên báo Cờ Đỏ của đảng Cộng sản Nhật Bản?

Mấy tấm hình đăng báo, khi tôi về lại Sài Gòn, và bài tôi khóc Takano trên Tin Sáng, làm tôi không nhớ, sau lúc thoát khỏi lửa đạn ở Lạng Sơn, tôi có nghĩ lại mà giựt mình hay không.

Nhưng tôi không thể nào quên cái lần đầu tôi kể chuyện nầy cho đám con tôi. Hơn hai mươi năm qua rồi mà mọi việc như cứ rành rành trước mắt…

Sau hội nghị Mặt Trận Tổ Quốc ở Hà Nội, giữa lúc chiến trận biên giới giữa Trung quốc và Việt Nam đang tiếp diễn ác liệt, tôi nằng nặc xin đi Lạng Sơn, lấy cớ là nhà báo Sài Gòn duy nhất có mặt, không ra chiến trường săn tin e bà con độc giả Sài Gòn chê trách. Phải mất vài ngày chờ đợi, nghe ngóng… Ông Xuân Thủy sau cùng dàn xếp cho đi, cấp một xe bộ đội loại nhỏ hiệu Liên Xô, với đầy đủ lương thực ăn đường và một cán bộ tháp tùng. Khi chuẩn bị lên đường tôi mới biết có hai ông Nguyễn Ngọc Trân, nay là chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc Hội, và Nguyễn Văn Ngọc, nay là phó trưởng ban Tôn giáo Chánh phủ, cùng đi. Tôi nói “cùng đi”, chớ kỳ thật không biết chừng nhờ có hai ông mà tôi mới được đi, vì hai ông là đảng viên, và vì dọc đường tôi thấy ông Trân thỉnh thoảng trình giấy giới thiệu với địa phương mà không biết giấy nói gì.

Xe đi không vội vã vì dọc đường còn phải dừng lại nghỉ đêm và nghe ngóng tin tức. Bà con các dân tộc tiếp đón niềm nở và không có vẻ gì là hoảng sợ. Chánh quyền các địa phương báo qua kế hoạch bố trí bà con sơ tán: tất cả đều được phân bố trong các gia đình và tiếp tục tham gia sản xuất. Ải Chi Lăng núi non hiểm trở, trùng điệp, hùng vĩ – mà tôi mới đặt chân đến lần đầu – như hối thúc tôi dồn bước về phía trước. Càng gần về phía biên giới mới có lác đác người đổ về xuôi. Mà không hối hả. Với trâu và trâu. Không biết bà con nuôi kiểu nào mà từng đàn con nào cũng mập mướt. Một dân quân, súng trường dài thoòng quàng vai, chở một bà cụ sau xe đạp, đổ dốc. Anh nói: đưa mẹ đi gửi rồi trở về đánh tiếp. Ở một huyện lỵ, gần thị xã Lạng Sơn, chợ vẫn nhóm. Thuốc lá Lạng Sơn đi đâu cũng đụng. Tấm ảnh hai con bồ câu rỉa lông nhau trên cành cây vệ đường, đăng trên Tin Sáng, là tôi chụp ở chợ nầy. Ở một cơ quan địa phương , một bà chị người dân tộc im lặng ngồi ở cửa, không biết tự bao giờ và đến bao giờ: chồng chị, một cán bộ tuyên huấn, đi công tác ở một xã trên cao, kẹt đánh nhau cả tuần chưa thấy bóng. Nước trên các chóp rất khó tìm, phải trữ, phải tiếp. Phần lớn các hang núi được biến thành nơi làm việc, trạm xá. Những thứ đó còn đọng lại trong tôi cho tới giờ.

Rồi cũng đến được đỉnh đồi cách vài kilômét nhìn xuống thị xã Lạng Sơn. Một hàng dài xe báo chí nước ngoài đang chờ đó, không biết tự bao giờ. Sau khi đọc giấy giới thiệu, ông tướng chỉ huy mặt trận chấp nhận cho chúng tôi vô thị xã mà phải theo chân một đơn vị bộ binh dẫn đường. Ông nói: “Để các anh đi ẩu, rủi có gì ai chịu trách nhiệm!”. Ông nói cũng có lý, với lại chiến trận chỉ cách vài cây số đường chim bay. Một sĩ quan đứng gần kề tai tôi mách nước: “Các anh theo lính không nổi đâu. Đường núi quanh co không dễ đi, họ còn phải lo bảo vệ các anh nữa, biết chừng nào tới nơi! Các anh có xe sao không phóng thẳng vô? Chỉ sau mấy phút là tới. Nếu chúng không pháo trúng”.

Nhìn quanh, các ngọn đồi đan chen nhau như bát úp. Ta và địch chia nhau làm chủ và đấu pháo qua lại. Pháo địch chiếu cố đặc biệt con đường dưới chân đồi từ chỗ chúng tôi đứng dẫn vào thị xã.

Mạo hiểm cũng có cái hấp dẫn và cũng dễ lây: “cán bộ đường lối” cũng đồng tình phóng xe vô thị xã, không do dự mấy. Chúng tôi nhảy vội lên xe, vọt. Đạn pháo ùm oàng. Địch có nhắm bắn chúng tôi không, tôi không biết. Chỉ vụt thoáng thấy hai bên đường đây đó vài chiếc thiết giáp nằm kềnh, trâu phơi bụng, các bụi tre tang toác… Xe ngừng, nhảy xuống, ngó lại: một xe truyền hình Thuỵ Điển bám sát chúng tôi hồi nào không ai hay. Vài phút sau, một xe trinh sát trờ tới, đổ quân, tủa ra bố trí… Hợp tác xã thêu Lạng Sơn đổ nát. Bấm. Bệnh viện Lạng Sơn tan hoang. Bấm. Ở một ngã tư, vài xác chết chưa kịp nhặt. Không bấm. Một cột mốc bên lề đường, có khắc “Lạng Sơn, km: 0″, với hai ông Trân và Ngọc ngồi đứng kế bên. Bấm. Một con mèo con co rúm trong một đống đổ nát, không biết đường chạy. Bấm luôn. Ngó lại: mấy ông truyền hình Thuỵ Điển đang chĩa máy quay hình tôi! Đạn bay như gió bão ào ào trên đầu. Tưởng là đạn ta, tôi cứ chạy nhảy, lia máy, bấm.

Từ xa, một người ngồi sát chân một tường rào giơ tay ngoắt. Lom khom men tường tôi đến gần. Một anh bộ đội ta vừa bị thương vào đùi. Xe chúng tôi vọt tới, lôi vội anh lên, phóng ra khỏi trận địa. Anh thương binh nói : “Tôi đã rút sẵn chốt lựu đạn, tụi nó tới, tui cho nổ luôn!”. Ra tới đỉnh đồi lúc nãy, bộ chỉ huy quân sự đâu không thấy, xe các phóng viên chiến trường cũng không. Một anh bộ đội giữ chốt cho biết: một đạn pháo địch vừa rơi trúng đây, mấy chiến sĩ bị thương vừa được chuyển về tuyến sau.

Về lại tuyến sau, buổi chiều, chúng tôi được tin ký giả Takano của báo Cờ Đỏ Nhật Bản hy sinh. Anh vào thị xã Lạng Sơn sau chúng tôi khoảng ba tiếng đồng hồ. Và anh cũng đã đến quãng bên này đầu cầu Kỳ Lừa, nơi chúng tôi đã mò gần đến, trước khi quân Trung Quốc giựt sập cầu để rút lui.

Bài học không nên quên

Chuyện đang hào hứng mà đám con tôi lại òa khóc. Bắt đầu từ cô chị cả. Con gái lớn tôi mếu máo qua nước mắt: “Cha không thương tụi con ! Ai bắt cha vô đó”?!
Ai bắt ? Chẳng qua là nghề với nghiệp thôi !”

Với lại, cũng cần nói thêm: suốt mấy ngàn năm lịch sử quan hệ giữa hai nước, có triều đại nào, có chế độ nào của Trung Quốc mà không xua quân sang đánh nước ta? Đó là điều trẻ con nào cũng biết. Nhưng một Trung Quốc xã hội chủ nghĩa, vừa là đồng chí vừa là anh em, lại cũng không từ cái việc “dạy cho Việt Nam xã hội chủ nghĩa một bài học”, sau khi Việt Nam, cũng chẳng đặng đừng, đã đánh cho một đồng chí anh em khác chạy có cờ, là điều mới mẻ ít ai ngờ. Việc tôi có mặt ở Lạng Sơn trong cuộc chiến ít ai ngờ đó cũng là một cơ hội bất ngờ hi hữu mà không phải ai cũng được gặp. Và tôi không thể bỏ qua.

Cuộc chiến nầy là một bài học lịch sử vô giá đối với tôi. Nhưng không biết rồi đây tôi có nhớ mà học cho thuộc hay không.

Nghĩ về cái sợ đến sau, cái sợ hồi tưởng, và về cái sợ cho người thân của mình, hai cái sợ mà các con tôi hơn một lần đều lãnh đủ, tôi thấy thương các con lắm !

Đang chuyện làm báo, sao tôi nói leo vô chuyện tù và chuyện nhà? Nhưng việc vào tù ra khám, việc vào ra công an hay việc làm báo đối lập của tôi đôi khi tách riêng ra cũng không dễ, và khó mà không “văng miểng” cho gia đình. Biết bao lần vợ con tôi đã phải ngăn tiếng khóc, để đến bây giờ mới bật ra?…

Hồ ngọc Nhuận


Phạm Duy : Người của trăm năm


Vũng Tàu ! Lại xuất hiện nạn chặt chém du khách.

Vũng Tàu ! Lại xuất hiện nạn chặt chém du khách.

Quán Thu Mai bị tố ở địa chỉ mà quán Như Ý một thời tai tiếng Vũng Tàu.

Sáng 16-2, đoàn kiểm tra liên ngành TP Vũng Tàu đã đến quán ăn Thu Mai (quán Như Ý trước đây, số 306 Phan Chu Trinh, P.2, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) kiểm tra chung và tìm hiểu việc một du khách phản ảnh quán này “chặt chém” khách trong dịp tết vừa qua.

Trước đó, ngày 15-2, thông qua báo Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Tùng Nghĩa, ngụ Q.Tân Bình (TP.HCM), phản ảnh trưa 12-2 (mồng 3 tết) gia đình ông đến Vũng Tàu nghỉ dưỡng, đã bị quán Thu Mai tính gian số lượng và lấy giá cao ngất ngưởng. Gia đình ông Nghĩa được tài xế taxi của Hãng Petro giới thiệu và đưa đến quán Thu Mai khi ông đề nghị taxi đưa đến quán ăn bình dân.

Cụ thể, theo phản ảnh của ông Nghĩa, trong bữa ăn năm người của gia đình ông có món lẩu tôm sú và lẩu cua gạch. Với hai món này, mỗi món ông phải trả số tiền 1,26 triệu đồng. Trong đó, món tôm sú chỉ có 10 con to bằng ngón tay cái nhưng được quán này cân tới 1,4kg và tính giá mỗi ký lên tới 900.000 đồng. Món cua có ba con, mỗi con to bằng bốn ngón tay được quán này cân đến 1,8kg và tính giá mỗi ký 750.000 đồng. Tính tổng cộng bữa ăn của gia đình ông hết hơn 3,6 triệu đồng.

Tại buổi kiểm tra nói trên, bà Trần Thanh Hương – chủ quán Thu Mai – đã đưa 10 con tôm sú loại lớn, to gần bằng nửa cổ tay lên cân thì được ngót nghét 1,4kg. Tuy nhiên, trao đổi lại với chúng tôi, ông Nguyễn Tùng Nghĩa khẳng định 10 con tôm sú mà gia đình ông đã ăn ở quán Thu Mai mỗi con chỉ to bằng ngón tay cái. Về cua, bà Hương cũng đưa lên ba con và cân được 1,8kg. Tuy nhiên, theo quan sát của chúng tôi, những con cua này được buộc bằng những sợi dây vải to, ngấm nhiều nước. Ngoài ra, theo ông Nghĩa, mỗi con cua mà gia đình ông ăn chỉ bằng bốn ngón tay gộp lại, còn cua do bà Hương đưa ra cân trước mặt đoàn kiểm tra to bằng cả bàn tay.

Ông Võ Quý Khanh, phó trưởng Phòng Văn hóa thông tin TP Vũng Tàu, cho biết quán Như Ý trước đây nằm trong danh sách đen “chặt chém”. Do đó, với những quán kiểu này, cơ quan chức năng đã yêu cầu và chủ quán đã cam kết khi bán hàng cho khách phải thông báo giá cụ thể và cân trước mặt khách. Tuy nhiên, tại buổi làm việc, nhân viên ghi món ăn của quán Thu Mai là Trần Thị Anh Thư đã thừa nhận không cân tôm, cua cho khách thấy.

Giá các món ăn quán Thu Mai tính với thực khách đã được đăng ký tại Phòng Tài chính kế hoạch TP Vũng Tàu. Tuy nhiên, giá này cao so với các quán ăn hải sản có tiếng khác ở Vũng Tàu. Người của một quán ăn hải sản trên đường Trần Hưng Đạo, P.1, TP Vũng Tàu cho biết trong những ngày tết, giá mỗi ký tôm sú nuôi được bán chỉ khoảng 400.000 đồng, tôm sú biển 430.000 – 500.000 đồng/kg (tùy loại), còn cua loại lớn chỉ khoảng 500.000 đồng/kg.

Đoàn kiểm tra đã lập biên bản và yêu cầu chủ quán Thu Mai phải thực hiện đúng cam kết cân trước mặt cho khách thấy. Ngoài ra, đoàn còn kiểm tra các loại giấy tờ, vật dụng của quán và phát hiện một bản hợp đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp và nhân viên bị tẩy sửa, có cân đã hư nhưng vẫn để trong nhà bếp. Sắp tới đoàn sẽ mời chủ quán Thu Mai lên làm việc để làm rõ các sai phạm này.

Hiện dọc đường Thùy Vân và các điểm đen về “chặt chém”, chính quyền đã đặt các biển cảnh báo, ghi số điện thoại đường dây nóng để du khách phản ảnh khi bị lấy giá cao. Du khách đến Vũng Tàu bị “chặt chém” có thể phản ảnh qua các số điện thoại đường dây nóng dưới đây:

– Trưởng đoàn kiểm tra liên ngành TP Vũng Tàu: 0989.217.417.

– Trưởng Công an P.Thắng Tam, TP Vũng Tàu: 0913.947.870.

– Chủ tịch UBND P.Thắng Tam, TP Vũng Tàu: 0918. 581.755.

– Công an P.Thắng Tam, TP Vũng Tàu: 0643.852.264.

– Trưởng Công an P.2, TP Vũng Tàu: 0913.758.658. Trực ban Công an P.2: 0643.524.088.

– Chủ tịch UBND P.2, TP Vũng Tàu: 0918.010.963.

– Phó chủ tịch UBND P.2, TP Vũng Tàu: 0918.221.661.

bom tấn đang ” oanh tạc ” Vũng Tàu :http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/534224/chat-chem-khong-biet-chan-con-ai%C2%A0dam-den.html


Năm Tỵ bàn chuyện rắn rết !

Năm Tỵ bàn chuyện rắn rết !

Mãi hôm nay mùng 5 tôi mới đưa bài này lên mạng vì thú thật tôi không ưa con vật này .Theo tử vi, những người sinh năm Tỵ thường thông minh, tài giỏi và cũng không thiếu lươn lẹo như… Rắn. Nhiều xếp ngân hàng ở Việt Nam cầm tinh tuổi này ( phải như vậy thì mới ngồi trên đống bạc chứ ngu như heo thì làm ăn nổi gì ?)Người tuổi Tỵ đặc biệt rất thành công trong các lĩnh vực như chính trị, nghệ thuật, kinh doanh. Trong ngành ngân hàng, không ít người tuổi Quý Tỵ (Rắn vàng – năm nay tròn 60 tuổi) giữ trọng trách rất quan trọng.Cũng vì vậy mà dư luận đồn đoán sau Tết sẽ thêm nhiều xếp ngân hàng “nhập kho” Chí Hòa hay Hỏa Lò .Chuyện bắt bớ xem hồi sau sẽ rỏ ở đây ta bàn chuyện rắn rết.

Năm nay sanh trai hay gái ?

Trong mấy ngày Tết vừa qua nhân trà dư ,tửu hậu, người cho rằng năm nay “săn” công chúa Qúy Tỵ là nhất. Chẳng biết thực hư chuyện tốt xấu khi sinh con trong năm nay thế nào, tôi xin tản mạn đôi chút về loài rắn hy vọng sẽ mang đến những hiểu biết thú vị về loài bò sát mang nhiều huyền thoại kỳ bí nhân ngày xuân Qúy Tỵ.
Theo tử vi thì tôi chẳng hạp cũng chắc khắc với bác Tỵ nhưng trong thực tế rắn vốn là khắc tinh của loài chậm chạp ,ngu dốt  như  tôi . Thế nên, thịt rắn làm ra bao nhiêu món thì tôi tranh thủ ăn bấy nhiêu như để “trả thù” cho giống nòi. Từ lẩu rắn đến thịt rắn nấu cháo đậu xanh, xào lăn, chiên giòn, nướng trui, nem rắn … tôi đều nếm thử. Quả là không chê vào đâu được, mỗi món lại mang một hương vị độc đáo riêng. Những người ở Hà Nội dù không mê thịt rắn đều biết đến làng Lệ Mật nổi tiếng với các món đặc sản này. Có thể nói, ở rắn chẳng bỏ đi phần nào: da rắn chiên giòn ăn thì hết xảy, thịt rắn xào lăn ngon không kể, rắn nguyên con nướng trui thì đậm đà hương vị đất phương Nam, xương rắn có thể băm nhỏ, rang giòn với vừng và lá chanh cũng là món ngon đáng thèm. Chỉ kể riêng về rượu thì cũng có đến vài cách pha chế từ rắn, đó là rượu tiết rắn, rượu mật rắn hay rượu ngâm rắn nguyên con, ngâm “ngẩu pín” hay đầu rắn. Theo “dân” nhậu thì chung rượu tim rắn sẽ được dành cho người nhiều tuổi nhất trong bàn. Nhìn chung, rắn là một thức ăn giàu chất dinh dưỡng và có một số chất đạm mà loài khác không có. Còn rượu được chế biến từ các bộ phận của rắn lại tốt cho hệ gân cơ, bổ thận.Vì thế trong nhà tôi luôn luôn có một hủ ngũ xà 10 lít to chà bá.

Ở Việt Nam được ghi nhận là nơi cư ngụ của 193 loài rắn, trong đó có 53 loài rắn độc. Riêng ở phía Nam có hẳn trại nuôi rắn Đồng Tâm của bộ đội, cách thành phố Mỹ Tho  khoảng 9km. Nơi đây có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, nuôi trồng các loại rắn quý và điều trị rắn độc cắn. Tại trại rắn Đồng Tâm, hoảng nhất là loài rắn hổ mang chúa, số lượng lên đến 200 con chưa kể các con con dưới 1 tuổi. Rắn hổ mang là loại rắn cực độc, quý, được xếp bậc E trong sách đỏ Việt Nam. Chúng bò nhanh như mây gặp gió nên còn được gọi là rắn hổ mây.

Nói đến loài rắn không ai xa lạ gì nhưng cũng thật hiếm người biết một sự tích rất hay về loài rắn. Xưa kia, có một phụ nữ rất xinh đẹp nhưng cũng vô cùng độc ác. Nàng có khả năng đoán được vận mệnh trong ánh trăng và biến người khác thành loài vật. Nàng lấy một vị vua rất khôi ngô, tuấn tú nhưng lại biến chàng thành một con gấu chỉ vì ganh tỵ với sắc đẹp của chồng mình. Ít lâu sau, nàng nhận ra mình sắp làm mẹ, nàng leo lên ngọn tháp và hỏi ánh trăng: “Ngươi có tin rằng con ta sẽ đẹp hơn ta?”. Nhưng mặt trăng không trả lời. Rồi nàng hạ sinh một bé gái tuyệt đẹp. Nàng lại hỏi mặt trăng thì được trả lời: “Nàng đẹp nhưng con nàng là thiên thần ánh sáng. Nó dịu ngọt như mật ong và xinh đẹp hơn nàng gấp ngàn lần”. Thế là nàng tức giận đem đứa bé vào rừng hầu để thú dữ ăn thịt nó. Nhưng rất may có một con gấu đã cứu sống và nuôi dưỡng đứa bé. Thời gian sau đứa bé lớn lên thành cô gái xinh đẹp, khi nàng ngủ trong rừng thì gặp một vị hoàng tử nước láng giềng đi ngang qua. Cảm mến trước sắc đẹp và tính nết của nàng nên hoàng tử muốn đưa nàng về chung sống. Nàng xin phép con gấu đã nuôi dưỡng nàng.

Lúc gặp gấu, hoàng tử hoảng sợ nhưng con gấu biết nói tiếng người đã năn nỉ nàng chém đầu nó để nó lại được làm người. Quả thực khi đầu gấu rơi xuống cũng là lúc vị vua ngày xưa hiện lên và kể lại câu chuyện bị người đàn bà ác độc hãm hại. Mọi người tìm cách trừng trị mụ với kế hoạch loan tin rằng trong rừng có người xinh đẹp hơn mụ. Thế là mụ nhanh chóng đem cây gậy giết người vào rừng. Vua cha định dùng bột thần vốn là bảo bối phòng vệ của mình rắc lên người mụ nhưng chẳng may lại rơi trúng cây gậy. Nó biến thành con rắn khổng lồ rồi nuốt chửng mụ và lẩn vào cỏ dại mà chạy mất.

Khi nghe câu chuyện, ít nhiều người cũng sẽ liên tưởng mụ đàn bà ác độc ấy với loài rắn bởi chỉ có loài rắn mới nỡ ăn thịt con mình. Theo tài liệu khảo cứu mới đây của hai vị giáo sư Estrella Morcino và Krik Setser của  Đại học Granada, Tây Ban Nha, rắn mẹ sau khi sinh nở, vì còn yếu không đủ sức và thời giờ đi tìm mồi, sẽ ăn những rắn con không sống sót (chết yểu) để lấy lại sinh lực. Kết quả cho thấy, trung bình rắn mẹ ăn độ 11% số trứng và rắn con bị chết sau khi sinh nở. Người ta bảo “Hùm dữ không nỡ ăn thịt con”, có những loài ăn cả thịt đồng loại như cá sấu, bọ ngựa, nhện … nhưng chỉ duy nhất rắn là loài ăn thịt con mình. Quả là ác như rắn độc!

Đó là phát hiện về loài rắn mà tôi mới có dịp biết đến gần đây nhưng chuyện rắn lột da thì thưở ấu thơ tôi đã được bà kể cho nghe trong những đêm gối đầu trong lòng ngoại. Trong ý nghĩ non nớt của một đứa trẻ, tôi cứ ngỡ rắn là một động vật có phép thần thông, “lột da sống lại” nhưng khi lớn lên tôi mới biết da đối với rắn cũng như quần áo của một đứa trẻ. Càng lớn lên thì quần áo càng chật, phải cởi bỏ và thay chúng đi để phát triển thể xác hơn. Đó là đặc điểm sinh học riêng của giống loài này mà kỳ thực chẳng có một phép lạ nào cả.

Ly kỳ hơn là chuyện rắn hổ giao phối cùng mèo cái đen sẽ sinh ra linh miêu. Chẳng hiểu giữa hai con vật này có đặc điểm gì giống nhau mà dân gian lại đồn đãi nhau rằng chúng mây mưa để sinh ra linh miêu?!

Nhưng bấy nhiêu lời bà kể vẫn chưa đủ rùng rợn để dù dọa một đứa bướng bỉnh như tôi bằng những câu chuyện rắn báo thù mà tôi được nghe ở đâu đó, đặc biệt là vụ án Lệ Chi Viên. Đó là năm học cuối cấp 2, dù đã chừng ấy tuổi nhưng tôi vẫn tin sái cổ vào câu chuyện ly kỳ mà thầy dạy văn đã kể. Chuyện vắn tắt rằng, trong lúc xây nhà, cụ đồ Nhị Khê cứ nằm mơ thấy có một phụ  nữ van xin đừng giết mẹ con mình. Sáng ra, cụ đồ bèn hỏi gia nhân có thấy gì lạ trong lúc xây nhà không thì được trả lời chỉ thấy dưới đất có mấy con rắn con đã bị chết trong khi đào đất. Rồi một đêm nọ, bỗng nhiên cụ thấy ba giọt máu nhỏ từ trên mái nhà xuống trang sách cụ đang đọc và biến thành chữ “báo thù”. Thời gian sau, Nguyễn Trãi – cháu cụ đồ phải lòng cô bán chiếu tài hoa Nguyễn Thị Lộ và lấy làm thiếp. Sau đó, ông đưa nàng vào hầu cho vua Lê Thái Tông. Một hôm vua bị đau lưỡi, Nguyễn Thị Lộ đề nghị vua thè lưỡi ra để Thị Lộ chữa. Lộ cắn vào lưỡi vua (được hiểu là tiêm nọc độc rắn). Vua chết ngay không kịp kêu một tiếng. Sau đó cả nhà Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Nhưng sự thực của dòng lịch sử này đã được vua Lê Thánh Tông minh oan vào năm 1464. Và như vậy, chẳng có chuyện rắn báo thù gì cả!

Truyền thuyết và thực tế thì loài rắn cũng khá độc nhưng cũng phải cảm ơn chúng vì chính nó đã khai sinh ra loài người. Nói như thế chắc nhiều người sẽ “nhảy dựng”, bởi lẽ người Việt Nam với nòi giống “con Rồng cháu Tiên” thì làm gì có thể được khai sinh bởi loài rắn ác độc, tầm thường như thế. Thế thì chúng ta nên truy tìm nguồn gốc sâu xa hơn nữa khi loài người chỉ có mỗi Adam và Eva. Rắn không sinh ra loài người nhưng theo truyền thuyết thì chính nó đã xui nàng Eva ăn trái cấm trong vườn địa đàng để rồi khơi gợi trong lòng Eva dục vọng trần thế. Và nàng đã tìm cách quyến rũ Adam, xui chàng ăn quả cấm dể cả hai cùng mây mưa xác thịt. Thượng đế biết chuyện nên đày cả hai xuống trần gian thực hiện chức năng cao quý của loài người là duy trì nòi giống. Thế là có chúng ta. Còn Adam và Eva vì bị con rắn xảo quyệt xui ăn trái cấm khiến bị đày xuống trần khổ cực nên lấy cây đập đầu nó. Từ đó, loài rắn đều có đầu bẹp dí và thường hay lẩn khuất trong bụi rậm để tránh sự truy đuổi.Các ông,các anh lâu lâu sờ lên cần cổ thấy một cái cục đó là biểu tượng ăn táo bị nghẹn,hãy cảnh giác với cơn cám dỗ của mấy con mãng xà tinh đội lốt “gái xinh “.

Hẳn nhiều người cũng sẽ ngạc nhiên vì sao con rắn hung ác lại nằm trong biểu tượng của ngành Y dược cao quý. Theo truyền thuyết thì mẹ của thần Esculape qua đời khi còn đang mang thai ông và cha ông dã phải mổ lấy ông ra khỏi bụng mẹ. Vì mẹ mát nên ông lớn lên nhờ bú sữa dê và được thần Nhân Mã nuôi dạy. Do bản tính ưa quan sát và lớn lên trong khung cảnh thiên nhiên nên Esculape sớm nhận ra các loại cây cỏ có dược tính chữa bệnh hoặc có thể cải tử hoàn sinh. Một ngày nọ, Esculape trên đường đi thăm bạn gặp một con rắn, ông đã đưa cây gậy ra và con rắn liền bám lấy rồi bò lên quấn quanh cây gậy. Esculape thấy vậy nên cầm cây gậy đập xuống đất để giết chết con rắn nhưng sau đó ông lại thấy một con khác bò tới, miệng ngậm một loại thảo dược bò đến cứu và làm cho con rắn đã bị chết sống lại. Từ đó, ông để tâm tìm kiếm các loại cây cỏ trong núi để chữa bệnh cho con người. Esculape được xem như thần bổn mệnh của các thầy thuốc và hình ảnh con rắn quấn quanh cây gậy phép của Esculape trở thành biểu tượng của ngành này. Con rắn quấn quanh cây gậy tượng trưng cho sự khôn ngoan, khả năng chữa trị bệnh và kéo dài tuổi thọ. Ngoài ra, còn có biểu tượng con rắn quấn quanh một cái ly có chân cao. Chiếc ly tượng trưng cho chén thuốc của nữ thần sức khỏe Hygia, bên trong có chứa đựng chất dịch được chiết xuất từ các loại cây cỏ.

Không những thế, rắn còn là linh vật của người Khmer và của Phật giáo Nam Tông Khmer. Người Khmer thờ thần rắn để được thần rắn che chở, phù hộ độ trì cho người dân Khmer diệt trừ ma quỷ. Chúng ta vẫn thường thấy tại một số ngôi chùa có tượng đức Phật ngồi trên tòa sen, bên trên là hình con rắn 7 đầu. Tương truyền rằng, khi Phật đang tịnh dưới cội bồ đề thì mưa to gió lớn nổi lên, nước dâng lên sắp ngập cả chỗ Phật ngồi. Khi ấy, có một con rắn hiện ra lấy thân mình cuộn tròn lại, bảo toàn cho đức Phật ngồi nhập định khỏi bị ngập nước và vươn cao 7 cái đầu phình to ra tạo thành cái tán che mưa cho Đức Phật khỏi sự tấn công của Ma Vương mưu phá.

Kết thúc bài viết, tôi xin lạm bàn về tử vi của người tuổi Tỵ, hầu mua vui trong những ngày đầu xuân. Người tuổi Tỵ gây ấn tượng, bí ẩn, khôn ngoan, hấp dẫn và khá lãng mạn. Những người này thường dễ bị rơi vào trạng cái căng thẳng khi cuộc sống của họ không theo đúng trình tự. Họ thích một cuộc sống bình yên và thích loại công việc dễ xử lý hơn là loại công việc bận rộn. Tuổi Tỵ hợp với tuổi Dậu, Sửu, khắc với Dần, Thân, Hợi. Trong đó Tỵ và Hợi được xem là hai tuổi khắc nhau nhất trong vòng quay tử vi. Dân gian có bài đồng dao rất vui: Rắn sợ lợn, Cua sợ ếch, Rết sợ ốc sên … Không phải ngẫu nhiên là trong dân gian lại đúc kết như thế bởi trong cuộc sống động vật, quả thật rắn rất sợ lợn. Khi một con rắn dù hung hãn đến mấy nhưng khi gặp lợn thì chỉ còn biết cuộn tròn lại và chú lợn cứ việc tới nhai con rắn ngon lành như nhai kẹo. Điều này đã từng có người giải thích, do lợn có khả năng miễn dịch với nọc độc rắn lại hay bới xới tìm kiếm thức ăn nên rắn và các loại bò sát khác là mồi ngon cho lợn. Khi gặp được hang rắn thì lợn không bỏ qua mà đào bắt cho bằng được.

Chuyện cũng đã dài, tôi xin mượn hai câu thơ của cụ Nguyễn Du để thay cho lời kết:

“Lời quê chắp nhặt dông dài

Mua vui cũng được một vài trống canh”

PS: Theo thăm dò của tôi ngoài Đường hoa Nguyễn Huệ và trên FB ,các bạn nữ không thích chụp hình chung với rắn ,vì vậy tôi lấy cái hình rắn làm bằng hoa bất tử ở Hội Xuân Tao Đàn minh họa cho vẹn cả đôi đàng.Con nào con nấy lưỡi phụt ra trông mà kinh hãi ,lại còn có con đeo mắt kính nữa chứ,đúng là người sao rắn vậy .29 Tết khai xuân bằng bài ” Con gái có nên uống rượu rắn không ?”Hôm nay khóa đuôi bằng bài này xem như là hết Tết rồi nhé.


Chúc Mừng ngày lễ Valentine 2013

Chúc Quý Cô,các bạn nữ ngày lễ Valentine hạnh phúc !


Bên Thắng Cuộc – Quyền bính: Tướng Giáp (1)

Trong Bên Thắng Cuộc, PhầnI: Giải phóng, Huy Đức dẫn người đọc đến Phần II:
Quyền bính. Tác giả khẳng định:“Quyền Bính không phải là một cuốn sách nói chuyện “thâm cung bí sử” cho dù có nhiều câu chuyện, có nhiều nhân vật được đặc tả rất cận cảnh. Những câu chuyện được kể trong cuốn sách này là sự chia sẻ của rất nhiều người trong cuộc về một giai đoạn mà Việt Nam đã bỏ lỡ những cơ hội có thể đi tới mục tiêu “công bằng, dân chủ, văn minh” do chính đảng cầm quyền đề ra”.

tuonggiap

Tuy nhiên, người đọc, nhất là những người thuộc “bên thua cuộc”, vẫn coi đây là chuyện “thâm cung bí sử” vì (1) họ không có cơ hội tiếp xúc một cách gần gũi với các nhân vật quan trọng của Đảng Cộng sản như nhà báo Huy Đức và, (2) họ không là “người trong nội bộ Đảng” nên những gì cuốn sách tiết lộ đều được coi là những góc khuất về quyền lực tại Ba Đình.
Gần một chục nhân vật chóp bu trong đảng đều có những góc khuất của riêng mình và việc khám phá ra chúng làm cho cuốn sách có giá trị lịch sử thú vị, cho dù sự tin cậy của các tài liệu Huy Đức cung cấp không phải là hoàn toàn khả tín hoặc chính Huy Đức cũng là nạn nhân của sự cố tình đánh lạc hướng do chính các nhân vật tạo ra.
Nói như vậy để hiểu rằng mỗi người đọc sẽ có đánh giá riêng của mình về cuốn sách sau khi đã loại trừ những thông tin, những vấn đề còn nhiều tranh cãi hoặc nghi vấn.
Trong Mấy lời của tác giả, nhà báo Huy Đức viết, “Những năm đầu thập niên 1990, chúng tôi được bố trí ăn, ở với các đoàn đại biểu tại nhà khách số 8 Chu Văn An; được dự hầu hết các phiên thảo luận mà các đại biểu đang là ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ chính trị. Chúng tôi cũng dễ dàng gặp gỡ, trò chuyện với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đỗ Mười, Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh”.Trong phạm vi bài viết này, nhân vật chúng tôi muốn nói đến là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lịch sử đã ghi chép, duới gốc đa Tân Trào, tại tỉnh Tuyên Quang, ngày 22/11/1944, ông Giáp cùng với 34 chiến sĩ, trong đó có 3 nữ, ra mắt lực lượng đầu tiên của Việt Minh với tên gọi
 Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân”, tiền thân của Quân độiNhân dân Việt Nam ngày nay.
Trong bước đầu thành lập, đội quân này được trang bị vỏn vẹn 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy. Bức ảnh lịch sử thành lập quân đội dưới đây, tướng Giáp là người đội mũ phớt đứng bên trái. Sau này, Lê Đức Thọ đã gọi ông là… “ông tướng mũ phớt”.
Ảnh
Võ Nguyên Giáp và đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
Đến tháng 5/1948, tức khoảng 3 năm rưỡi sau, Võ Nguyên Giáp được ông Hồ Chí Minh phong chức Đại tướng, khi ấy mới 37 tuổi. Đó là cả một “huyền thoại” trong cuộc đời binh nghiệp vì có lẽ trên thế giới chỉ mới thấy xuất hiện hai đại tướng được phong vượt 17 cấp như thế! Đầu tiên là ông Giáp và sau này, ở Bắc Triều Tiên, có Kim Jong-un.
Từ đó người ta gọi ông là “Tướng Giáp” và ông đã trải qua -những chức vụ quan trọng như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội cho đến năm 1982.
Võ Nguyên Giáp được coi là một nhà chỉ huy quân sự, nhà hoạt động chính trị và là đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân. Ông cũng là chỉ huy chính trong chiến tranh Đông Dương (1946–1954) và chiến tranh Việt Nam (1960–1975). Tướng Giáp tham gia vào nhiều chiến dịch quan trọng như Chiến dịch Biên giới Thu đông (1950), Trận Điện Biên Phủ (1954), Chiến dịch Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch năm 1972 và Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975).
Điểm đặc biệt về vị Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân là ông chưa từng trải qua một trường lớp quân sự nào. Bên Thắng Cuộc tiết lộ: “Cụ Hồ cũng đã từng cử Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc học quân sự. Nhưng trên đường đi, Chiến tranh Thế giới thứ II đưa người Pháp ở chính quốc vào thế thua, Hồ Chí Minh thấy thời cơ tới nên gọi ông trở lại. Tướng Giáp vì thế chưa từng qua bất cứ một trường lớp nhà binh nào. Có lẽ, tư duy quân sự của ông hình thành trong những năm dạy sử”.
Ảnh
Hồ Chí Minh & Võ Nguyên Giáp
Tướng Giáp sinh ngày 25/8/1911 tại thôn An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Gia đình Võ Nguyên Giáp có 7 anh chị em, nhưng người anh cả và chị cả mất sớm nên còn lại năm, 3 người con gái và 2 người con trai là Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho, sau này là Thứ trưởng Bộ Giáo dục.
Những năm học ở Trường Quốc Học Huế ông thường tới nhà cụ Phan Bội Châu đàm đạo và được cụ Phan cho mặc sức sử dụng kho sách của mình. Giáp cũng chơi thân với thầy giáo Đặng Thai Mai.
Năm ông mười sáu tuổi, người Pháp đuổi học Nguyễn Chí Diểu. Giáp khởi xướng một cuộc bãi khóa để phản đối. Vì sự kiện ấy, Giáp cũng bị đuổi học. Nguyễn Chí Diểu đến An Xá tìm Giáp và tiết lộ “Chúng tôi đã lập Đảng Tân Việt” (chứ không phải Việt Tân ngày nay!).
Giáp bảo: “Tôi đi với anh”. Võ Nguyên Giáp là người đã góp phần tích cực đưa Tân Việt tham gia Đông Dương Cộng sản Đảng.Đầu tháng 10/1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Nhà lao Thừa Phủ (Huế), cùng với người yêu là Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là Võ Thuần Nho và các giáo sư Đặng Thai Mai, Lê Viết Lượng… Năm 1935,
Nguyễn Thị Quang Thái trở thành người vợ đầu tiên và có một con với ông.
Ảnh
Võ Nguyên Giáp & Nguyễn Thị Quang Thái
Chị Quang Thái hẹn khi con (Võ Hồng Anh) cứng cáp sẽ đi thoát ly hoạt động cùng chồng. Nhưng cả hai không ngờ lần chia tay năm 1940 cũng là lần vĩnh biệt, chị Thái bị người Pháp bắt giam và chết trong tù năm 1944. Theo lịch sử đảng, bà Thái là một hình tượng người phụ nữ mẫu mực, kiên trung, yêu nước và được phong tặng danh hiệu “liệt sĩ”.
Ảnh
Nguyễn Thị Quang Thái & Võ Hồng Anh
Giáo sư – Tiến sĩ Võ Hồng Anh (1941-2009), con gái Tướng Giáp, kể lại: “Năm 1929, cha tôi lần đầu tiên nghe nhắc đến cái tên Nguyễn Thị Quang Thái, cô em gái trẻ, thông minh và rất xinh của Nguyễn Thị Minh Khai. Trong chuyến tàu cha tôi trở lại Huế, tới Vinh thì gặp mẹ tôi lên tàu, cùng với một nữ sinh Đồng Khánh. Lúc đó mẹ tôi mặc áo dài, tóc để xõa, da trắng, gương mặt sáng. Nhưng điểm gây ấn tượng với cha tôi nhất là đôi mắt”.
Ảnh
Tướng Giáp và con gái, GS-TS Võ Hồng Anh
Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế Đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut, nhận bằng cử nhân luật năm 1937
 (Licence en Droit). Do bận rộn hoạt động cách mạng, vào năm 1938, ông bỏ dở học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật sư.
Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặttrận Dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của mặt trận đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng
Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng.
Tháng 5/1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội, do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà trường. Một trong những học trò của Tướng Giáp, ông Bùi Diễm, người đã từng là bộ trưởng Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa năm 1965, viết:
“Những gì về ông Giáp hồi ấy thật đặc biệt, vì vậy mà hơn nửa thế kỷ sau, tôi vẫn còn nhớ rõ rệt. Phần giảng dạy của ông về Nã Phá Luân rất ly kỳ… Hình như ông đã in tất cả trong đầu và sử trở thành một phần trong con người ông. Ông như chìm đắm vào thế giới của mình và ông lôi kéo học trò vào thế giới đó” (Bùi Diễm, Trong Gọng Kìm Lịch Sử, Phạm Quang Khai xuất bản năm 2000, trang 21, 22, 23).
Ảnh
Hồ Chí Minh & Võ Nguyên Giáp (1950)
Mối quan hệ giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp thoạt đầu được mô tả là khá thân thiện, đằm thắm. Bên ThắngCuộc trích dẫn lời Tướng Giáp: “Lúc mới ra Bắc, anh Lê Duẩn thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc. Anh đã nhiều lần nói với tôi, năm 1940 nhờ có chị Thái nên anh thoát khỏi án tử hình”.
Câu chuyện về “chị Thái” mà ông Lê Duẩn đề cập, theo Huy Đức, xảy ra trong phiên tòa xử những người lãnh đạo Nam Kỳ khởi nghĩa, Lê Duẩn và Nguyễn Thị Minh Khai đứng đối diện trong song sắt trước tòa. Minh Khai viết một bức thư
 nhỏ, gấp lại rồi ném cho Lê Duẩn, chẳng may thư rơi xuống gần người lính canh ngục. Nguyễn Thị Quang Thái đứng gần đó, nhanh chóng nhặt và nuốt ngay lá thư.Năm 1946, khi ông Đặng Thai Mai (1902-1984) chuyển từ Sầm Sơn ra Hà Nội, Giáp tìm tới thăm, lúc này cô con gái của thầy Mai, Đặng Bích Hà, đã là một cô gái mười chín xuân thì. Họ lấy nhau và có bốn người con. Đặng Bích
Hà sau này là Phó giáo sư lịch sử tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Ảnh
Võ Nguyên Giáp & Đặng Bích Hà
Sau 1954, gia đình Tướng Giáp – Đặng Bích Hà, kể cả người con gái của ông (Võ Hồng Anh) với bà vợ trước Nguyễn Thị Quang Thái, sống quây quần trong biệt thự, số 30 Hoàng Diệu, Hà Nội.
Ảnh
Võ Nguyên Giáp – Đặng Bích Hà cùng 5 người conVõ Hồng Anh, Võ Hạnh Phúc, Võ Điện Biên, Võ Hồng Nam và Võ Hòa Bình (1963 )
Bên Thắng Cuộc, Chương 15: Tướng Giáp, bàn về mối quan hệ giữa Lê Duẩn [1] cùng những người thân cận của ông với Tướng Giáp. Nổi bật nhất là sự thật về vụ án chống đảng “Năm Châu – Sáu Sứ” năm 1967 đến sự kiện về việc “Thống chế đi đặt vòng”.
Chương 15 cũng trưng nhiều tài liệu về vai trò thực sự của Tướng Giáp trong cuộc chiến tranh 1955-1975, Sự kiện Vịnh Bắc bộ, Tết Mậu Thân 1968. Huy Đức đưa Tướng Giáp vào cuối phần Dấu ấn Nguyễn Văn Linh, đó là thời điểm bắt đầu một nỗ lực nhằm hạ uy tín của “Vị tướng Điện Biên” diễn ra vào cuối nhiệm kỳ Tổng bí thư.
Ảnh
Từ trái qua phải:
Nguyễn Văn Linh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái
Lịch sử  ghi lại, mãi tới tháng 5/1940, Võ Nguyên Giáp mới sang Trung Quốc gặp Hồ Chí Minh và tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương trong khi năm 1939 Lê Duẩn đã được bổ sung vào Thường vụ Trung ương Đảng. Tuy nhiên,
trong thời gian Lê Duẩn gần như mờ nhạt ở miền Nam thì Võ Nguyên Giáp đã “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu” tại miền Bắc.
Theo ông Hoàng Tùng, khi đó là chánh Văn phòng Trung ương Đảng, “Khi mới từ miền Nam ra, cả Lê Duẩn và Lê Đức Thọ [2] đều không thấy thoải mái khi ngồi cùng Tướng Giáp. Cho dù lịch sử gắn bó giữa Lê Đức Thọ và Lê Duẩn bắt đầu bằng một cuộc đụng độ [3]. Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, Lê Đức Thọ đã đóng một vai trò quan trọng trong quy trình cán bộ đưa Lê Duẩn đạt đến đỉnh cao quyền lực”.
Về phần mình, ông Giáp cũng đã rất giữ mình, đặc biệt, với Lê Duẩn. Năm 1956, Trung ương Đảng thừa nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất, Trường Chinh xin từ chức, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ là chủ tịch Đảng kiêm thêm chức vụ tổng bí thư. Ông Giáp, lúc đó đang là trợ lý về Đảng của Hồ Chí Minh, tiết lộ: “Tháng 7/1956, tôi đề nghị Bộ Chính trị cử anh Ba [Lê Duẩn] làm phó tổng bí thư để dễ làm việc, nhưng anh đã từ chối và nói, nên chờ đại hội quyết định. Tại hội nghị Bộ Chính trị bàn việc chuẩn bị đại hội, khi được đề nghị làm trưởng ban chuẩn bị Báo cáo Chính trị, anh cũng từ chối và nói, ‘đã mười năm không ở miền Bắc, chủ trì chuẩn bị báo cáo e khó khăn, vì vậy đề nghị hai đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp tham gia’. Cuối cùng Bộ Chính trị đề nghị Bác làm trưởng ban, anh Ba làm phó”.
Hoàng Tùng kể lại, “Lê Đức Thọ gặp không ít đàn em gợi ý thẳng… ‘giờ đến lượt tao’. Những năm 1945, 1946, thế Lê Đức Thọ lớn lắm, chỉ sau Hồ Chí Minh, Trường Chinh. Bác cử Lê ĐứcThọ vào Nam cũng có ý không để hai ‘con hổ’ Trường Chinh, Lê Đức Thọ gần nhau. Nhưng khi Bác lấy phiếu thăm dò, không ai đề cử Lê Đức Thọ cả. Trong bốn ứng cử viên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn cao phiếu hơn hẳn”
Ảnh
Ngày 26/8/1945, Tướng Giáp về Hà Nội
sau khi Việt Minh giành được chính quyền
Tiếp đến là thời kỳ Tết Mậu Thân. Ngày 1/1/1968, sau khi thăm một số nơi bị máy bay bắn phá ở Hà Nội, vào lúc 2 giờ 30 chiều và tiếp “Bộ Chính trị đến làm việc”, ông Hồ Chí Minh tiếp tục “sang Bắc Kinh dưỡng bệnh”. Ở Hà Nội, bàn tay của Lê Đức Thọ bắt đầu siết mạnh hơn.
Để đảm bảo hoàn toàn bí mật chiến dịch Tổng công kích Tết Mậu Thân, chỉ trước khi nổ súng một tuần, Lê Duẩn mới triệu tập các ủy viên Trung ương về Kim Bôi họp Hội nghị Trung ương lần 14. Tại hội nghị, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thông báo với Trung ương rằng trong cuộc họp quan trọng này “có nhiều
đồng chí vắng mặt”. Lê Duẩn giải thích:
“Trước hết, tôi xin báo cáo với các đồng chí, lần này hội nghị Trung ương chúng ta họp, có một số đồng chí Trung ương bị ốm không đến được, có một số đồng chí bận việc không đến được. Trong Bộ Chính trị cũng có đồng chí bận việc không đến được, một số đồng chí sẽ đến, mai có đồng chí Thọ (Lê Đức Thọ), đồng chí Dũng (Văn Tiến Dũng) sẽ đến báo cáo”
Sau Hội nghị Trung ương 14, chiều 20/1/1968, Lê Đức Thọ có đến Bắc Kinh để “báo cáo Bác Hồ”. Tướng Giáp khi đó lại ở Hungary, ông nhớ lại: “Sắp nổ súng thì Bác cũng đang ở Bắc Kinh. Bác điện cho tôi: chú thu xếp về càng sớm, càng tốt”.
Từ Hungary, Tướng Giáp bay tới Bắc Kinh. Theo ông Vũ Kỳ, sáng 25/1/1968, Hồ Chí Minh gặp riêng Võ Nguyên Giáp. Trong khi, cả “Cha già Dân tộc” và “Anh cả của Quân đội” vẫn đang “an trí” ở Bắc Kinh thì những binh đoàn chủ lực miền Bắc bí mật áp sát các đô thị miền Nam.
Máy bay Trung Quốc đưa Tướng Giáp về tới Hà Nội ngay trong ngày 29 Tết. Hôm sau ông mới được Tướng Vũ Lăng, cục trưởng Cục Tác chiến báo cáo “Kế hoạch Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa”. Vũ Lăng nói: “Anh Văn Tiến Dũng bảo bây giờ thì có thể báo cáo toàn bộ với anh Văn” (Văn là bí danh của Võ Nguyên Giáp).
Tướng Giáp cố giữ vẻ mặt bình thản để dấu niềm cay đắng. Ông, vị tổng tư lệnh, đã không được biết một kế hoạch lớn như vậy cho đến trước khi nổ súng một ngày. Cái đêm mà cả miền Nam chìm trong khói lửa của Tổng tiến công Tết Mậu Thân, Hồ Chí Minh đang ở Bắc Kinh.
Theo lời kể của Vũ Kỳ, thư ký riêng của Hồ Chí Minh, hai người ngồi “trong căn phòng vắng” để nghe lời chúc Tết của chính ông qua đài Tiếng nói Việt Nam từ chiếc radio bán dẫn:
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!”
Cũng theo lời Vũ Kỳ, bài thơ trên được Hồ Chí Minh làm trong gần ba tháng khi đang ở Bắc Kinh và đã được thu thanh khi ông về Hà Nội hồi cuối tháng 12/1967 (Vũ Kỳ, Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy, báo Văn Nghệ số Xuân, năm 1998).
Bốn ngày sau khi Chiến dịch Mậu Thân bắt đầu, một trong những nhân vật quan trọng nhất của chiến dịch, Tướng Nguyễn Văn Vịnh [4], bị vô hiệu hóa. Ông là Ủy viên Thường trực Tổng Quân ủy, được cử vào Trung ương Cục trao đổi Kế hoạch Mậu Thân chỉ mười ngày sau khi Tướng Nguyễn Chí Thanh mất.
Tướng Vịnh trở lại Hà Nội vào đầu tháng 1/1968, và chính ông là người báo cáo tình hình chiến trường miền Nam với Quân ủy và cũng là người trực tiếp soạn thảo Nghị quyết Trung ương 14.
Theo thư ký riêng của Tướng Vịnh, ông Phạm Văn Hùng, thì chiều mồng 5 Tết Mậu Thân, ông Vịnh được Lê Đức Thọ mời tới nhà riêng để gặp vào lúc 15 giờ. Cuộc gặp kéo dài tới chập tối nên ông Hùng không thể chờ.
Sáng hôm sau khi ông Phạm Văn Hùng quay lại nhà riêng và là nơi làm việc của Tướng Vịnh, 34 Cao Bá Quát, thì được ông Vịnh cho biết, ông bị ngưng tất cả các chức vụ: ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, ủy viên thường trực Quân ủy, thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Khoảng ba mươi nhân vật cao cấp đã bị bắt, phần lớn là những người thân cận với Tướng Giáp như: Thiếu tướng Đặng Kim Giang [5], Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Đại tá Lê Minh Nghĩa, Đại tá Đỗ Đức Kiên… Trừ một số người bị bức
cung để phải khai ra “vai trò cầm đầu của Tướng Giáp” lờ mờ nhận thấy mục tiêu chính trị của “vụ án”, phần đông cho đến tận cuối đời không hiểu vì sao lại có vụ án này.
(Còn tiếp)
***
Chú thích:
[1] Lê Duẩn
(1907–1986) là Bí thư Thứ nhất Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ 1960 đến 1976, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1976 đến 1986. Ông là nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam có tổng thời gian tại vị lâu nhất với 25 năm, 303 ngày. Từ 1960 cho đến khi qua đời năm 1986, ông có một ảnh hưởng chính trị rất lớn tại miền Bắc và ở Việt Nam sau 1975. Ông cũng đã xác lập quyền uy tối thượng của mình trong những năm tháng còn tại vị.
Lê Duẩn chính là người đã vạch ra chiến lược cách mạng ở miền Nam với tác phẩmĐề cương cách mạng miền Nam. Từ bản đề cương này, hàng loạt phong trào bạo động ở miền Nam nổ ra, dọn đường cho quân đội Bắc Việt tấn công và đánh chiếm Sài Gòn vào năm 1975, kết thúc Chiến tranh Việt Nam.
Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7/4/1907, tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sau đó ông theo gia đình về sinh sống tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành cùng huyện, ở bên kia
dòng sông Thạch Hãn. Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn hiện nay được xây dựng Pierre Asselin từng nhận xét về Lê Duẩn: “Ông khao khát quyền lực tuyệt đối. Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo ở Hà Nội không chỉ trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách mạng”.
Tuy nhiên, Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc phủ nhận cách nhìn này, theo đó vai trò của Tướng Giáp bị làm lu mờ bởi những thành viên Bộ Chính trị trong giai đoạn cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông cũng cho rằng không hề có một sự
phân chia ê-kíp trong nội bộ Bộ Chính trị lúc bấy giờ, mà theo đó Tướng Giáp được cho là thuộc phái “chủ hoà”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng viết rằng: “Với tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh [Lê Duẩn] đã thường xuyên trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc… Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị
Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói: “Anh là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo”.
Ảnh
Hồ Chí Minh & Lê Duẩn
[2] Lê Đức Thọ (1911 – 1990) là chính khách đã từng được trao tặng giải Nobel Hòa bình cùng Henry Kissinger vào năm 1973 nhưng ông đã từ chối với lý do hòa bình chưa thực sự lập lại trên đất nước Việt Nam. Cho đến này, đó là giải Nobel duy nhất dành cho người Việt.
Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải, sinh ngày 10/10/1911, tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Cha là Phan Đình Quế, làm hương trưởng, chánh hương hội ở xã, từng được ban hàm cửu phẩm. Hai vợ chồng ông Phan Đình Quế sinh được tám người con, trong đó có ba người theo cộng sản: Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ), Phan Đình Dinh (Đinh Đức Thiện), Phan Đình Đống (Mai Chí Thọ).
Năm 1948, ông vào miền Nam làm Phó Bí thư, kiêm Trưởng ban Tổ chức Xứ ủy Nam Bộ cho tới khi Hiệp định Genève được ký kết năm 1954. Sau khi tập kết ra Bắc năm 1955, ông được bầu vào Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Việt Nam) và đắc cử.
Đầu năm 1968, ông trở lại miền Nam làm Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam một thời gian ngắn. Đến tháng 5
cùng năm, ông làm cố vấn đặc biệt cho đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris, bàn về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Từ tháng 3/1983, ông là Bí thư phụ trách Tư tưởng, Nội chính và Ngoại giao. Năm 1983, ông được cử làm Chủ tịch Uỷ ban Quốc phòng. Năm 1986, ông là Trưởng Tiểu Ban Nhân sự Đại hội VI. Từ tháng 12 năm 1986, ông là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ảnh

 

Lê Đức Thọ & Henry Kissinger
[3] Năm 1948, với tư cách là ủy viên Thường vụ Trung ương, Lê Đức Thọ được cử vào Nam, nơi ông Lê Duẩn đang là bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Trong một hội nghị do Xứ ủy tổ chức vào năm 1949, Lê Đức Thọ đã xuất hiện như một cấp
trên, chỉ trích Xứ ủy Nam Bộ bằng những lời lẽ nặng nề. Khi mới vào Nam, ông Lê Đức Thọ là cấp trên và ông cũng có ý định thay thế Lê Duẩn giữ chức bí thư Xứ ủy. Tuy nhiên, ông Lê Đức Thọ sau đó đã chủ động xin ở lại làm phó cho Lê Duẩn.
[4] Nguyễn Văn Vịnh(1918-1978) đã từng là Trưởng phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Quốc tế thi hành hiệp định Geneve tại Sài Gòn, Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ – Bộ Quốc phòng – Tổng Tư lệnh, Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất Trung ương, Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III.
Giữa năm 1967, ông được Trung ương cử bí mật vào Nam, thay tướng Nguyễn Chí Thanh vừa mất trước đó 10 ngày, để phổ biến kế hoạch tấn công Tết Mậu Thân. Năm 1969, do liên can đến việc bảo vệ một số người trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, ông bị kỷ luật và buộc thôi giữ các chức vụ, bị hạ quân hàm xuống Thiếu tướng. Ngày 27/1/1972, Ban Chấp hành Trung ương mới ra nghị quyết tước quân hàm trung tướng của ông Nguyễn Văn Vịnh.
Ngày 13/10/1977, sau khi phục hồi đảng tịch và giữ quân hàm thiếu tướng cho Tướng Vịnh, Quyết định số 255 do chính Lê Đức Thọ ký, viết: “Đồng chí Nguyễn Văn Vịnh biết Đặng Kim Giang là phần tử xấu có quan điểm chống lại Nghị quyết 9 của Đảng vẫn quan hệ trao đổi một số quan điểm sai trái về đường lối chống Mỹ, tiết lộ những tin tức cơ mật về quân sự, chính trị với Giang. Giang đã sử dụng những tin ấy để hoạt động chống Đảng và cung cấp cho người nước ngoài. Nhưng tác hại không lớn. Đồng chí Vịnh không có quan hệ về tổ chức và hành động với nhóm chống Đảng của Đặng Kim Giang và không biết Giang hoạt động chống Đảng có tổ chức như sai lầm của 3
ủy viên Trung ương: Ung Văn Khiêm, Lê Liêm, Bùi Công Trừng”.
[5] Đặng Kim Giang (1910-1983) là một trong bốn chỉ huy quan trọng nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, với vai trò chủ nhiệm cung cấp của mặt trận, ông đã đảm bảo cung cấp mỗi ngày năm mươi tấn gạo cho chiến dịch. Năm 1958, ông được phong quân hàm thiếu tướng. Năm 1962, ông ra làm thứ trưởng Bộ Nông trường.
Năm 1967, ông là một trong những nhân vật chính trong Vụ án Xét lại Chống Đảng. Ông bị chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bí mật bắt giam 7 năm tại nhà tù Hỏa Lò Hà Nội và quản thúc 7 năm sau đó tại xã Việt Đoàn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc (nay là huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh).
Năm 1980 ông trở về Hà Nội, sống trong ngôi nhà cũ rộng 14 mét vuông tại số 30 ngõ Chùa Liên Phái thuộc quận Hai Bà Trưng. Mười người, vợ chồng, con cái, cháu nội, cháu ngoại sống trong ngôi nhà đó hơn 10 năm trời. Ông mất ngày 16/5/1983. An táng tại Nghĩa trang Văn Điển, Hà Nội.
Tác giả : Nguyễn Công Chính

Sau Tết sẽ đăng một loạt bài phê bình về ” Bên Thắng Cuộc ”

0saigon1975Trong những ngày Tết vừa qua đã có một loạt những bài phê bình có giá trị về cuốn sách ” Bên Thắng Cuộc ” phần 1 và 2 ( có lẽ người đọc và giới phê bình trong và ngoài nước ,các luồng tư tưởng và quan điểm khác nhau, đã có đủ thời gian  để “ngấm” và suy gẫm về quyển sách nầy) THVT sẽ lần lượt đăng những bài phê bình có giá trị !


Nguyễn Ngọc Tư quăng “lựu đạn” về năm rắn

Có con rắn trườn mình qua năm rắn
(Cú rảnh thứ hai, và không còn nữa đâu, các bạn hãy tận hưởng :))
Thằng nhỏ Sơn hỏi tôi vậy chứ chị có thấy năm 2012 là một năm thành công của chị không. Tôi dọt miệng bảo năm nào mà chị không thành công, thằng nhỏ kia nhìn tôi hơi kinh dị, ý nói con mẹ này nổ quá ta. Nhưng tôi nghĩ vậy thiệt, nghĩ rằng làm hết sức mình rồi, chơi cũng nhiệt tình, không thành quả thì cũng thành trái, không thành trái chín thì cũng thành trái…mìn.
Một năm. Thằng bạn nhỏ tăng 2 kg. Thằng bạn lớn tăng 1kg, nhưng cao bằng vai mẹ. Cây bông chúa tôi hay tưới vươn đến cửa sổ. Không để ba má cằn nhằn vụ nào (hoặc sắp cằn nhằn thì mình bỏ chạy, mấy ngày sau thì ông bà quên mất tiêu). Lì dày thêm được một tấc ba sau một cuốn sách. Đánh dấu thêm bảy chỗ mới trên bản đồ. Mua tổng cộng sáu cái ba lô (chán ngay sau đó, đem cho đầu này đầu nọ). Đọc những cuốn ai cũng đọc rồi chỉ mỗi mình chưa đọc, trong cái chương trình gọi là xóa mù kinh điển.
Sau giao thừa bước vào năm tuổi. Nghe nói năm tuổi thì người ta phải in thơ. Lại nghe nói năm tuổi phải in hai cuốn sách mới xua tan những vận xui :))
Chương trình nhảm xong rồi, hẹn gặp lại các bạn những rảnh năm sau. Chúc bạn đọc blog tôi, dù yêu hay ghét dù thương hay hận dù bạn hay thù dù tình cũ hay tình mới :p một năm nhẹ nhàng, trăm sự bình an, vui vẻ trẻ khỏe !
Kèm theo đây là một tràng pháo chuột nổ giòn giòn giòn giòn giòn giòn giòn giòn giòn giòn giòn giòn (phong pháo này có 16 viên, 4 viên lép)


Xả stress Mùa Xuân


Vũng Tàu Mùa Xuân – Quỳnh Liên


Hội chợ Tết Quý Tỵ của người Việt tại Mỹ


Tết và người Công Giáo

  Tết và người Công Giáo

Nhà Thờ đá Kim Sơn Phát Diệm vào xuân

Hôm 23 vừa rồi, một người bạn trên fb nhắn tin hỏi mình: Người đạo Chúa có đưa ông Táo về trời không chú?
Mình trả lời ngay, có chứ, có chứ. Cúng ông… táo tầu ở tiệm thuốc bắc ấy.
Hơi lạ là cô bạn nhỏ này cũng là người giỏi giang, đi nhiều, biết nhiều. Hoá ra, nhiều người chả biết người Công Giáo ăn tết thế nào.
Gần tết, người Công Giáo thường chuẩn bị tinh thần trước hay còn gọi là dọn mình: hoà giải với Chúa, với anh em. Ba mình có lệ, những ngày cận tết thường đến thăm anh em, bạn hữu, người trên trước. Đây là một mỹ tục, gọi là đi bái niên; tức là đến thăm hỏi ngày cuối năm để tỏ lòng thân ái.
Tiếc rằng bây giờ chả mấy người giữ được mỹ tục này vì cuộc sống bận rộn, bon chen.
Những ngày cuối năm cũng là dịp để chăm sóc phần mộ ông bà cha mẹ. Thường thì chỉ là lau rửa, làm cỏ, đặt chậu hoa, thắp vài cây nhang, đọc ít câu kinh…để tỏ lòng hiếu thảo.
Ở nhà thì quét dọn bàn thờ Chúa, bàn thờ cha mẹ. Nhiều người bắt chước chưng trái cây trên bàn thờ nhưng mình thì không. Đã không tin cha mẹ không “hưởng” những thứ đó thì chưng làm chi, chỉ cần để hoa cho đẹp và tỏ lòng tôn kính, yêu mến là được.
Đêm 30 đón giao thừa, trong khi người đạo Phật cúng mời ông bà cha mẹ về ăn tết thì ngay sau giao thừa, gia đình mình tổ chức đọc kinh. Chỉ chừng 5-10 phút, mục đích là cám ơn Chúa đã ban mọi sự tốt đẹp trong năm cũ, cầu xin Chúa quan phòng sắp xếp cho năm mới được an vui.
Sau đó là phần chúc tết. Các con sẽ chúc tết cha mẹ và cha mẹ sẽ chúc lại con cái và mừng tuổi cho từng đứa. Thường thì mình sẽ khuyên bảo nhẹ nhàng những tính xấu của con cái cần sửa chữa mà trong năm chúng chưa hoặc kém sửa chữa.
Tại nhà thờ của giáo xứ tối 30 bao giờ cũng có lễ đón giao thừa. Tiếng là đón giao thừa nhưng thường thì chừng 8-9 giờ tối. Sau lễ, ông (bà) Chánh Trương sẽ thay mặt giáo dân chúc tết cha xứ và cha xứ sẽ chúc tết lại mọi người. Những năm gần đây có lệ mỗi gia đình sẽ lên nhận 1 tờ thiệp in Lời Chúa. Thiệp này sẽ được dán chỗ trang trọng trong nhà để làm tôn chỉ sống cho gia đình trong năm mới.
Ngày mùng một thường có lễ sớm, để Cầu bình an năm mới. Mùng hai sẽ là lễ Cầu cho ông bà cha mẹ. Mùng ba là lễ Thánh hoá công ăn việc làm, mình hiểu là cầu xin giữ được đạo đức nghề nghiệp.
Trong ba ngày tết, cũng như mọi gia đình người Việt, mọi người cố gắng cư xử khéo léo trong mọi việc, trong mọi lời ăn tiếng nói. Cha mẹ sẽ gương mẫu hơn, con cái sẽ ngoan ngoãn hơn. Có nơi mùng hai sẽ có Thánh lễ tại nghĩa trang của giáo xứ, mọi người chia nhau đứng gần phần mộ của người thân. Đông, vui, nhưng không kém phần trang nghiêm, thành kính.
Ngày mùng một tết là vui nhất. Mọi người sẽ đến nhà chúc tết nhau. Nguyên tắc là người dưới đến nhà người trên: con cái đã ra riêng đến nhà cha mẹ, ông bà, em đến nhà anh, con cháu đến nhà chú bác; càng gần gũi càng phải đến sớm. Anh em ngày thường nếu có giận nhau, ngày tết cũng vẫn cho con cháu đến nhà chúc tết. Nếu đã đến nước cấm con cháu đến nhà nhau thì coi như tuyệt giao, hết thuốc chữa.
Qua bao nhiêu năm nay đã tạm coi là già, mình vẫn không quên khung cảnh đường làng trong ngày mùng một. Thật đông người trên đường, ai cũng tươi vui hớn hở, câu chào ” chào cậu, chào chú…năm mới” nghe thật quen tai và vui lạ.
Vui thích nhất là bọn trẻ con, quần áo mới xúng xính, tiền mừng tuổi rủng rỉnh đếm hoài không chán; càng đông anh em họ hàng càng nhiều tiền mừng tuổi, sướng mê tơi. Chị gái mình sống độc thân, thay mặt cha mẹ đã khuất tiếp đón anh em con cháu đến chúc tết.
Năm nào mình cũng phải đổi cho ít nhất là một triệu tiền để mừng tuổi. Ấy là mỗi đứa trẻ con chỉ mừng tuổi chừng 5 ngàn, cao lắm 10 ngàn là cùng. Có một lệ tục cũng khá hay ở quê mình là đi tết mới. Mới, vì là những đôi mới cưới nhau trong năm, đến tết cả đôi phải dắt nhau đến cha bác, anh chị mà chúc tết. Cũng hay, vì ngày cưới đông như kiến cỏ, cô dâu chú rể chắc gì đã biết ai vào với ai, nay đến từng nhà nhận họ, nên lắm.
Nghe bà nhạc mình kể, ngoài Bắc hồi đó, hai ông bà phải nai lưng ra gánh bánh chưng đi tết mới, sợ quá. Bây giờ đi tết mới thì vui, hơi mệt, nhưng sướng. Này nhé, lễ vật mang theo chai rượu, hộp bánh gọi là. Ai cũng nhận, rồi ai cũng…cho lại.
Được biết thêm về anh em bà con của chồng, của vợ. Người mới về làm dâu làm rể mà, ai cũng quý. Thích nhất là tiền mừng tuổi, trẻ con chỉ nhận tiền nhỏ, tết mới bèo nhèo gì cũng phải tiền trăm. Cháu chắt mình, cặp nào chịu khó đi xa đến chúc tết nhà mình, thế nào cũng được khuyến mãi bữa cơm tự làm.
Trước là cho vui vẻ gia đình, sau là test khả năng nội trợ của…cháu mới 🙂 . Lúc mừng tuổi, thế nào mình cũng tính cho tiền tàu xe. Sướng thế mà có cặp còn thừa dịp mình về quê chúc tuổi anh em, bày đồ lễ ra, ca bài ca… đại xá.
Bây giờ đôi lúc nghe có người chán tết, nào là mỏi mệt, tốn kém…Mình chả đồng ý tí nào. Quanh năm suốt thánh cắm đầu cắm cổ làm ăn, có ngày tết để nhớ, để sum họp với gia đình, anh em họ mạc. Thôi thì vất vả một tí, tốn kém một tí nhưng cũng có nhiều niềm vui.
Các bạn cứ thử tìm xem, có ai bán không khí tết, nhất là tết quê nhà của mình không ?. Nếu mà có bán, đắt rẻ gì mình cũng ráng mua một năm vài lần.

Bài của bạn đọc Trần Công Bình
Dốc Mơ – Gia Kiệm – Dồng Nai


Hoa vải, nhang, đèn điện, mâm quả nhựa và lòng thành

Hoa vải, nhang, đèn điện, mâm quả nhựa và lòng thành

Ý nghĩa cuối cùng của đời sống tâm linh, không còn nằm ở vật chất, mà ở những phút quán tưởng và… tự vấn.
Đang có một cuộc thay đổi lớn diễn ra trên… những bàn thờ gia tiên của người Việt. Cuộc thay đổi đó phản chiếu một cách tinh tế những cuộc bể dâu đang diễn ra trong đời sống xã hội và đời sống tinh thần của con người.
Thử tìm về ý nghĩa của cái bàn thờ và quan niệm về những đồ thờ trong tâm linh tín ngưỡng Việt Nam ngõ hầu tìm thấy ngọn nguồn câu chuyện.

Bàn thờ và đồ thờ

Trong Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới(1) hai tác giả Jean Chevalier và Alain Gheerbrant định nghĩa: bàn thờ (autel): “Một vũ trụ vi mô và một tác nhân của cái thiêng. Tất cả mọi động tác khấn vái, tụng kinh, tất cả mọi đường nét kiến trúc đều quy tụ về đây. Bàn thờ tái tạo trong quy mô thu nhỏ quần thể của thánh đường và của vũ trụ. Đây là chỗ mà cái thiêng tích tụ với mật độ cao nhất. Trên bàn thờ hay bên bàn thờ, người ta làm lễ dâng, lễ cúng, chính cái đó làm nó trở thành thiêng liêng. Cũng vì lẽ ấy nó được cất cao (altum: cao, cao thượng, kỳ vĩ có gốc Latinh là autel – bàn thờ) so với tất cả mọi vật xung quanh. Nó cũng tập hợp trong mình hệ biểu tượng của trung tâm thế giới: nó là tiêu điểm của đường xoắn ốc biểu trưng sự tinh thần hoá từng bước của vũ trụ. Bàn thờ tượng trưng cho địa điểm và khoảnh khắc, nơi một sinh thể trở thành linh thiêng, nơi thực hiện một thao tác thiêng liêng” (trang 58).

Ý nghĩa của cái bàn thờ trong đạo thờ gia tiên của người Việt, cũng mang những đặc điểm biểu tượng cơ bản của một “autel” được thể hiện trong định nghĩa trên. Đối tượng được phụng thờ là ông bà tổ tiên, người đã khuất trong gia đình. Những nghi thức lễ dâng, lễ cúng thể hiện lòng thành đối với những tiền nhân, người thân thuộc đang ở cõi âm.

Nhà văn Toan Ánh giải thích về Quan niệm thờ phụng tổ tiên(2) rằng: “Qua việc thờ phụng tổ tiên, tại Việt Nam, người khuất và người còn sống luôn luôn như có một sự liên lạc mật thiết. Sự thờ cúng chính là môi trường gặp gỡ của thế giới hữu hình và vũ trụ thần linh.

Đối với người Việt Nam, chết chưa phải là chết hẳn, thể xác tuy chết nhưng linh hồn vẫn còn và vẫn hằng lui tới với gia đình. Thể xác tiêu tan nhưng linh hồn bất diệt (…) Tục cũng cho rằng, vong hồn những người đã khuất thường luôn ngự trên bàn thờ để gần gụi con cháu, theo dõi con cháu trong công việc hàng ngày và giúp đỡ con cháu trong những trường hợp cần thiết”.

Ở phần Cầu cúng lễ bái, Toan Ánh nói về quan niệm đồ cúng được đặt trên bàn thờ, ngoài nhang đèn (thật), người ta thể hiện quan niệm về sự thành kính qua việc chọn đồ thờ cúng là hoa quả tươi, mới: “Mỗi khi có mùa hoa quả mới, trước khi mua ăn, con cháu bao giờ cũng nghĩ đến việc mua thắp hương cúng vái các cụ, cũng như một năm hai vụ cơm mới, con cháu cũng đều có sửa lễ cúng vái tổ tiên.

bantho1

Nếu trong vườn nhà có một cây ăn quả, những quả chín đầu tiên phải được hái thắp hương các cụ” (trang 24, 25, sách đã dẫn).

Điều này cũng trùng khớp với cách diễn giải của tác giả An Nam phong tục sách, cụ Mai Viên Đoàn Triển: “Đồ thờ thì có đèn nến, bình hương, bình hoa, mâm bồng, mâm vuông, mâm tròn, hộp trầu, đài rượu làm bằng đồng hay bằng gỗ sơn”. Và: “Ngày tết phải cúng cáo, ngày giỗ phải cúng cáo, có hoa quả đầu mùa, gạo mới hay việc hiếu, hỷ đều phải cúng cáo. Nhà giàu có thì dùng lễ tam sinh (lợn, trâu, dê) hoặc nhất sinh (một con lợn); lễ nhỏ, làm cỗ bàn, oản quả. Thông thường nhà dùng lễ lớn thì lo cỗ nhất sinh, lễ nhỏ thì sắm một thủ lợn hoặc một con gà, một miếng thịt, nhà nghèo sửa mâm cơm, canh, rau đậu, một con cá, một quả trứng.

Lễ không cứ lớn, nhỏ, chỉ cần rất mực thành tâm”(3).

Trong cuốn Việt Nam phong tục, thì ngoài liệt kê về việc bày biện trên bàn thờ, cụ Phan Kế Bính còn nhấn mạnh tầm quan trọng của những vật dụng để thờ cúng. Trong quan niệm dân gian người Việt, đó là những thứ được “thiêng hoá”, “thánh hoá” dù khó khăn đến mấy cũng không được đem cầm, bán. Cụ Phan viết: “Đồ thờ phụng, càng nhà giàu thì càng trang hoàng nhiều đồ quý, nhà nghèo đến đâu cũng có được một vài cây đèn nến sơn son và một cái bình hương. Ta coi đồ thờ tự là đồ rất kính trọng, không ai dám đem cầm bán bao giờ. Nếu nhà nào dám cầm bán thì ai cũng chê cười”(4)

Chất liệu của biểu tượng thay đổi

Như vậy, qua những dữ liệu trên, cho thấy, trong tín ngưỡng thờ tổ tiên của người Việt, chất liệu, nguồn gốc của đồ thờ cũng đóng vai trò rất quan trọng, không chỉ trong việc đạt đến tính cứu cánh của biểu tượng, sự thành công, hoàn hảo của thực hành nghi thức, mà còn là trung tâm để đánh giá sự thành tâm. Và dường như hương hoa quả, khói nhang, trầm, ánh lửa của ngọn đèn dầu, bấc đã góp phần rất quan trọng làm nên sự hiệu quả của không gian thờ cúng, tạo hiệu ứng về mặt cảm xúc, cảm giác, trực quan cho người thực hành nghi lễ thờ, cúng.

Lửa làm ấm cúng không gian, thanh tẩy, tái sinh là biểu tượng của trời, thần linh. Ngọn lửa đèn, bấc cháy có ngọn bốc lên phía trên, tượng trưng cho sự hướng thượng, nên đó vẫn được xem là nguồn năng lượng thần linh. Khói hương của những nén nhang quyện trong không gian tạo ra hiệu ứng huyền ảo, làm thanh thoát tâm hồn người sống; cũng như thể hiện quan niệm về một “kênh” kết nối trời đất, âm dương, chuyển tiếp tâm tình, lời khấn nguyện của người trần đến với người thiêng, thần thánh được phụng thờ. Hương hoa, tinh dầu của quả xanh là thành quả của bàn tay làm ra, dâng lên tổ tiên tượng trưng lòng thành con cháu, hậu duệ. Vì vậy, qua chất liệu, nguồn gốc những biểu tượng thờ cúng, khảo sát từ phía người thực hành thờ cúng, đã có sự trù định chức năng cộng hưởng tâm lý. Suy cho cùng, thông qua những đồ thờ, là nhang (hương), hoa quả tươi, người dương làm một cuộc chuyển hoá năng lượng để làm một cuộc gặp gỡ xuyên không gian và thời gian, để đối thoại, tâm tình với người âm.

Vậy, bạn có giật mình hay không nếu một hôm, đang lúc lau dọn bàn thờ chuẩn bị đón tết, chợt phát hiện ra, bấy lâu tổ tiên từ lâu sống chung với những đồ thờ đã bị biến đổi về chất liệu: từ thiên nhiên, tự nhiên sang nhựa, điện, từ đồ thật sang… “đồ giả”?

“Chỉ cần rất mực thành tâm”. Nhiều người lấy cái vế sau một câu nói của cụ Mai Viên Đoàn Triển để thoát khỏi những bận tâm. Người khác lại giải thích cho sự “biến đổi chất liệu” trên bằng việc viện dẫn những cái khó cần thích ứng trong đời sống. Có ít nhất ba nguyên do sau:

Một giai đoạn, do chịu hậu quả của sự áp đặt ý thức hệ trong quản lý văn hoá, khiến nhiều người xem thờ cúng, kể cả thờ cúng tổ tiên là gần với tệ dị đoan, duy tâm, hữu thần.

Không gian nhà cửa, nhất là nhà cửa trong bối cảnh đô thị hoá chật chội hơn, sự chuyển đổi từ kiến trúc hài hoà cởi mở với thiên nhiên sang kiến trúc nhà ống diễn ra phổ biến, điều này bất lợi cho việc chăm chút về nhang đèn hoa trái trên những bàn thờ, mọi thứ được quy về tiện dụng. Đồ nhựa, điện đáp ứng được điều đó. Khói nhang bị coi là ngột ngạt, ô nhiễm, lửa đèn bị coi là tiềm tàng khả năng cháy nổ hoả hoạn, hoa quả bị coi lãng phí…

Đời sống công nghiệp, đô thị hoá, nhịp điệu nhanh, vội, nhiều áp lực dẫn đến việc chọn lựa những phương thức thờ cúng mang tính tượng trưng, thiên về trang trí hơn đi sâu vào tín niệm, ý nghĩa truyền thống của biểu tượng, tiết kiệm được thời gian.

Một đĩa quả nhựa được sơn phết màu như thật, lư hương nhựa xi giả đồng, với ba cây nhang điện luôn ở trạng thái “cháy” đỏ, hai cây đèn (hay điện mô phỏng cây nến trái ớt), một đĩa bấc có bộ phận quạt gió cài đặt bên trong làm cho ánh điện đạt đến hiệu ứng “cháy bốc” như đồ thờ thật. Việc còn lại là bật và tắt công tắc khi cần. Những đồ thờ này có thể sử dụng quanh năm, mọi lúc, thích ứng quá tốt với không gian kiến trúc, môi trường sống mới và tinh thần sống mới chú trọng tính công năng, tiện ích.

Mấy ông bà già ở làng quê Việt Nam hôm nay có con cháu đi làm ăn xa, thành đạt, gửi tiền về xây nhà cửa, từ đường… sẽ mở mày mở mặt với xóm giềng hơn nếu lũ nhỏ mỗi lần về thăm quê, biết ý, mua thêm vài “phụ kiện hiện đại” để trưng bày thêm trên bàn thờ. Đồ thờ cúng bằng nhựa, bằng điện không chỉ chiếm lĩnh không gian nơi những bàn thờ gia tiên ở thành phố mà còn đang làm một cuộc đổ bộ mạnh mẽ trên những bàn thờ gia tiên nơi làng quê Việt Nam, nơi đang chịu tác động mạnh mẽ đến mức không kịp phản vệ từ làn sóng đô thị diễn ra nhanh chóng.

Khi tự vấn về lòng thành

Lòng thành chắc không vì vậy mà mất đi đâu cả. Đạo hiếu nơi người Việt, tin rằng vẫn sâu đậm trong tâm thức, được giáo dục cho các đời sau. Nhưng có một thực tế là người ta đang chọn lựa cách thể hiện lòng thành theo khuynh hướng tiện ích. Nhìn từ hệ quy chiếu truyền thống thì việc đó ít nhiều làm mất đi không khí tính “thiêng” mà việc thờ cúng tạo ra. Nhưng biết sao được, cần có cái nhìn cởi mở, thức thời để phù hợp với bối cảnh sống. Chắc tổ tiên chúng ta thì không bao giờ bày tỏ thái độ hay trách cứ cháu con về những chuyện lặt vặt như thế. Song, đôi khi chúng ta không tránh khỏi những cái giật mình thảng thốt khi nghĩ rằng một ngày nào đó, chúng ta cũng sẽ đến thời kỳ bật điện ngồi ngó đồ nhựa. Còn bây giờ thì vẫn phải sống theo thời, rồi biết cách tự trấn an rằng: ý nghĩa cuối cùng của đời sống tâm linh, không còn nằm ở vật chất, mà ở những phút quán tưởng và… tự vấn.

“Chức năng cộng hưởng của biểu tượng càng mạnh khi biểu tượng càng kết hợp tốt hơn với khí hậu tinh thần của một người, một xã hội, một thời đại, một hoàn cảnh” – Jean Chevalier(5) viết.
tuỳ bút NGUYỄN VĨNH NGUYÊN – Ảnh Zhivago

(1) Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới của Jean Chevalier và Alain Gheerbrant (Phạm Vĩnh Cư chủ biên, Nguyễn Xuân Giao, Lưu Huy Khánh, Nguyên Ngọc, Vũ Đình Phòng, Nguyễn Văn Vỹ dịch, NXB Đà Nẵng và Trường Viết văn Nguyễn Du, 2002). (2) Bộ sách Nếp cũ, cuốn Tín ngưỡng Việt Nam (quyển thượng), NXB Trẻ, 2005. (3) Thờ gia tiên, An Nam phong tục sách, Mai Viên Đoàn Triển, NXB Hà Nội, 2008. (4) Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính, NXB Văn hoá thông tin, 2005. (5) Sách đã dẫn.


Cỗ sáng mồng Một – gà cúng Giao Thừa

Cỗ sáng mồng Một – gà cúng Giao Thừa

Sáng mồng Một, các gia đình VN thường phải xử lý chú gà luộc đêm Giao Thừa. Nhưng nhiều người chén mà không hiểu con gà luộc có sự tích từ đâu. Xin giới thiệu một phiên bản.

Mời bà con nhắm con gà luộc, lá chanh và rượu trắng, mừng năm mới.

Theo phong tục của người Việt ta từ xưa, mâm cỗ cúng giao thừa thường có một đĩa xôi gấc đỏ tươi với ý nghĩa cầu may mắn, đỏ đắn cho cả năm; một con gà trống hoa luộc rất khéo, miệng ngậm bông hồng đỏ với ý nghĩa khoẻ mạnh, tinh khiết.Sở dĩ gà được chọn làm vật cúng tế linh thiêng trong đêm giao thừa bởi theo thần thoại của một số dân tộc Việt Nam, khi Ngọc Hoàng mới sáng tạo ra mặt đất, thấy lạnh lẽo, ẩm thấp. Người bèn sai mười mặt trời suốt ngày đêm chiếu sáng để sấy khô mặt đất. Nhưng đất đã khô trắng, nứt nẻ rồi mà Ngọc Hoàng quên không thu các mặt trời lại khiến con người và cây cỏ khốn đốn vì nắng hạn.

Có một chàng dũng sĩ giương cung tên bắn liên tiếp rụng 9 mặt trời. Mặt trời cuối cùng sợ hãi quá bay tít lên cao và trốn biệt không ló ra nữa. Mặt đất lại lạnh lẽo tối tăm. Con người và loài vật rủ nhau đi gọi mặt trời. Chẳng con nào gọi được, cuối cùng chỉ có con gà trống khoẻ mạnh cất tiếng gáy vang lừng khiến mặt trời tò mò ngó xuống rồi quên cả sợ hãi hạ thấp dần độ cao, khiến mặt đất lại sáng bừng lên.

Đêm giao thừa (trừ tịch) là đêm trời đất tối tăm nhất, người ta bảo đó là lúc mặt trời ẩn mình sâu nhất. Nhà nhà bảo nhau đều cúng một con gà trống với hi vọng con gà sẽ đánh thức mặt trời chiếu sáng cho đủ đầy ánh nắng cả năm.

Gà cúng trong đêm giao thừa phải là gà trống hoa, trống mới le te gáy với ý nghĩa khoẻ mạnh, tinh khiết, chưa biết tình yêu tình iếc là gì. Đó chính là ước mong “mưa thuận gió hoà” của cư dân nông nghiệp. Con gà thành một nét văn hoá đi liền với tín ngưỡng tôn sùng mặt trời của nghề nông lúa nước. Lâu dần, cúng gà trống hoa thành phong tục của mọi gia đình Việt Nam vào lúc giao thừa.Tuy nhiên, đến thời hiện đại nhiều gia đình Việt Nam đã không làm nông nghiệp, câu chuyện gà gọi mặt trời không còn được nhiều người biết đến, mã văn hoá ấy bị mờ dần khiến nhiều người không hiểu.Thay vì cúng gà, người ta cúng bằng một khổ thịt vai hay một cái chân giò, những thứ đó chỉ có ý nghĩa vật cúng mà không mang ý nghĩa văn hoá.

Thậm chí, người ta còn dùng tư duy tư biện hiện đại để suy diễn rằng năm Tỵ thì không cúng gà vì rắn vồ gà, năm Dậu cũng không cúng gà vì đã là năm gà thì không cúng gà nữa. Đó là những lí giải tư biện khá thô thiển so với nghi lễ xưa.Cúng gà đêm giao thừa là một nét đẹp trong văn hoá Việt Nam, thế hệ mai sau cần gìn giữ truyền thống có từ lâu đời này, không nên vì ảnh hưởng của thời cuộc làm mai một đi một nét đẹp trong phong tục dân tộc.Vài chuyện vui về gà “khỏa thân”

Chuyện thứ nhất
Voi đang đi trong rừng, bỗng nhìn thấy cáo ngồi bên bờ suối vặt lông một con gà.

Voi xông lại quát:

– Cáo! Sao mày dã man thế?

Cáo luống cuống, giả vờ bưng mặt nấc lên:

– Đây là… vợ em. Cô ấy mới bị ốm chết. hu hu…

– Đồ ác thú! Vợ chết mà lại vặt lông ăn thịt. Tao phải trừng trị mày!

Cáo bí quá, càng khóc to hơn:

– Khổ… nhưng mà từ hồi cưới nhau tới giờ đã khi nào em được nhìn thấy nó khỏa thân đâu…

Chuyện thứ 2

Vào một ngày rảnh rỗi, 2 chú gà trống rủ nhau đi chơi. Chú thứ nhất hăng hái đưa ra hàng loạt địa chỉ thú vị như: đi sở thú thăm họ hàng xa là mấy anh đà điểu, đi nông trường tán gẫu với mấy anh trống choai…

Sau 1 hồi trầm tư, chú gà trống thứ 2 mới từ tốn nói:

– Đi vào siêu thị chơi

Chú thứ nhất ngạc nhiên:

– Vào để làm gì ?

– Vào nhìn lũ gà mái đang… khỏa thân nằm trên kệ.


Sài Gòn đã từng có phố máy tính.

Sài Gòn đã từng có phố máy tính.

Ciữa lòng Sài Gòn có một khu phố với diện tích ước chừng 1km2, dân dã gọi là phố máy tính. Còn trong Từ điển Thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh, chủ biên TS Lê Trung Hoa đã gọi khu phố này là phố tin học. Nay, tên gọi “phố máy tính” không còn nữa. Phố máy tính, một trong những con phố đã trở thành một ký ức Sài Gòn với thời gian xuất hiện thật ngắn ngủi. Để rồi, chúng lại lột xác và sắp thành một khu phố kinh doanh sản phẩm khác. Lại một ký ức mới xuất hiện.
1. Ngày ấy, khu phố máy tính Sài Gòn được những con đường lớn ở Sài Gòn bao bọc, che chở: Cách Mạng Tháng Tám – Nguyễn Thị Minh Khai – Nguyễn Trãi – Cống Quỳnh. Còn những con đường “nội ô”: Sương Nguyệt Anh, Bùi Thị Xuân và Tôn Thất Tùng là những con đường trung tâm của phố.

Năm 1995, công ty cổ phần công nghệ thông tin Scitec của TS Trần Hà Nam là doanh nghiệp đầu tiên dựng cửa hàng bán máy tính ở khu phố này.

Ông Phạm Hồng Phước, một chuyên gia có nhiều đóng góp trong việc truyền bá tin học đến với cộng đồng kể: “Lúc đó tôi ước ao có một máy tính để vọc phá nhưng giá cao quá, 5 – 6 lượng vàng, nên thỉnh thoảng ghé cửa hàng của Scitec chỉ để ngắm máy rồi về”.

Năm 1997, khu phố máy tính Sài Gòn bắt đầu sinh sôi, nảy nở khi những sản phẩm công nghệ thông tin như máy tính, máy in, phần mềm, linh kiện như mainboard, chuột, loa… đã có nhiều hàng với nhiều thương hiệu khác nhau. Mới có. Cũ có. Chuyên bán hàng mới chỉ có dăm ba cửa hàng, sau nâng cấp thành siêu thị. Đầu tiên phải kể đến siêu thị máy tính Nguyễn Hoàng ở số 2 Bùi Thị Xuân. Sau đó mới đến lượt Hoàn Long (góc Tôn Thất Tùng – Sương Nguyệt Anh), Phong Vũ (góc Cách mạng Tháng Tám – Nguyễn Thị Minh Khai), sau này có thêm Thành Nhân, Hợp Nhất, Sáng Tạo, Bách Khoa… góp sức tạo nên bộ mặt hoành tráng cho khu phố máy tính Sài Gòn.

Nhưng nhiều hơn cả vẫn là những cửa hàng chuyên bán máy tính cũ, linh kiện cũ. Hàng nhập về từng “công” theo dạng mua rác sỉ, từ màn hình cho đến CPU, máy in và cả mainboard, con chuột. Cái nào còn chạy được thì bán theo máy tính bộ. Cái nào hư thì tháo lấy linh kiện làm bảo hành. Nhà nhà bán máy tính cũ. Người người mua máy tính cũ vì không đủ tiền sắm máy tính mới. Dọc hai bên đường Bùi Thị Xuân và Tôn Thất Tùng, cửa hàng san sát nhau. Chỉ cần thuê mặt bằng, treo bảng hiệu, trưng bày dăm ba bộ máy tính cũ là thành cửa hàng. Người bán nhiều. Có thể kể tên: TK (chuyên bán hàng của Dell), Mai Gia (bán hàng HP), Minh Quân, Hoàng Gia (bán hàng của hãng IBM), Bảo Nghi, Bảo Khang, Lê Dương, Hồng Quân, Ánh Thông, Trường Giang (chuyên phần mềm), Việt Cường, Thái Tú… Kể hết phải đến hàng trăm. Người mua đông. Những con phố nhỏ ở khu phố máy tính lúc nào cũng chật cứng người, từ Sài Gòn cho đến các tỉnh. Thuở ấy, không ít Việt kiều cũng tìm đến khu phố này để mua một bộ máy tính cho người thân ở quê nhà và mua mấy đĩa phần mềm mang về Mỹ vì giá quá rẻ: 3 – 4.000đồng với hàng trăm phần mềm đã được bẻ khóa.

Ngày ấy, mặt trời vừa lên, đã có cửa hàng mở cửa, cho đến 9 – 10 giờ khuya vẫn còn nhiều nơi sáng đèn. Hữu Lộc, một bạn học cũ từ thời đại học Tổng hợp, vốn là dân khoa toán – tin khóa 1 cũng mở cửa hàng ở khu phố máy tính. Lộc rủ hùn vốn để mở cửa hàng lớn hơn vì đây là lúc làm ăn “ngon” nhất của thị trường công nghệ thông tin. Thấy và nghe thì ham nhưng ngặt nỗi không biết lấy đâu ra lượng này lượng nọ để hùn. Vậy là qua đi một cơ hội.

Không chỉ là khu phố kinh doanh mà nhiều công ty công nghệ thông tin, từ phần cứng cho đến phần mềm cũng có mặt, như FPT, Nguyễn Hoàng, Kỷ Nguyên, Thành Nhân… đã làm khu phố này đông đúc, ồn ào hơn, vui hơn. Những cửa hàng “dịch vụ” như quán cơm số 1, quán cơm Mekong, hàng loạt quán cà phê vỉa hè… theo đó mà làm ăn, lúc nào cũng đông khách, từ khách mua cho đến nhân viên của công ty trong khu phố máy tính.

2. Nhưng khu phố ấy giờ đây đang “lụi tàn”. Chính xác là từ năm 2009, nhiều cửa hàng trong phố máy tính đã đóng cửa, lặng lẽ chuyển chỗ, chuyển nghề. Hàng mới, từ CPU, máy tính xách tay, màn hình, máy in, ổ cứng, RAM, mainboard… ngày càng rẻ hơn, lại có khuyến mãi, chế độ bảo hành tử tế… Trong khi đó, hàng cũ ngày càng ít vì chính sách cấm nhập hàng đã qua sử dụng, còn giá hàng cũ xấp xỉ với hàng mới đã làm người mua không còn mặn mà với hàng cũ. Cũng trong thời gian này, thị trường chứng khoán hấp dẫn, bất động sản được mùa đã làm giá thuê mặt bằng tăng vọt trong khi sức mua ế ẩm, nhiều cửa hàng trả lại mặt bằng cho chủ vì không chịu nổi giá thuê. Lộc cũng đóng cửa, nghe nói kiếm được chút lãi để chơi chứng khoán và đầu tư bất động sản…

Giờ đây khu phố máy tính Sài Gòn vẫn còn đông khách, lại thức khuya hơn nhưng là khách dập dìu ra vào các khách sạn, dịch vụ massage, chăm sóc sắc đẹp, ngân hàng, quán ăn cao cấp, cao ốc văn phòng, quán bar… trên đường Bùi Thị Xuân. Con đường Tôn Thất Tùng ngày xưa đông vui là thế, giờ đây đã đi ngủ sớm. Thức, giám đốc công ty TK (đường Tôn Thất Tùng) ngậm ngùi: “Bây giờ khu phố này buồn lắm. Nhiều anh em đã đóng cửa. Chỉ còn vài mống như TK, Mai Gia, Minh Quân, Hoàng Gia, Việt Cường, Thái Tú… nhưng cũng không còn tồn tại lâu nữa đâu, chừng vài năm nữa là cùng. Tôi phải mở thêm cửa hàng bán quần áo trẻ em, trang phục bảo hộ cho dân chơi môtô để bù lỗ. Chỉ còn khách quen, 5 – 6 giờ chiều là đóng cửa, cho nhân viên nghỉ sớm. Có mở cửa cũng chẳng bán được hàng”. Khi đèn đường bật sáng, cũng là lúc các cửa hàng đóng cửa. Chỉ còn mỗi Hoàn Long sáng đèn…

Dân dã bây giờ gọi phố máy tính bằng tên mới: phố ăn chơi. Nếu không tin thì cứ đến rồi biết…


Chị ơi, em cưới mùa Xuân nhé!

Chị ơi, em cưới mùa Xuân nhé!

Bạn đón Tết xa nhà, bạn không nhớ ai đó như là Mẹ hoặc Chị mình mới lạ?! Xin gửi cho người phụ nữ của chúng ta một cái Tết ấm nồng…

1. Đó là lần cuối cùng tôi đón Giao thừa với Mẹ.

Tết năm ấy, Kỷ Tỵ, Mẹ bước qua sang tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”, tiếp tục lặng thầm thực hiện cái thiên chức vĩ đại nhất của người phụ nữ cho đàn con 5 đứa. Một nửa thế kỷ đời Mẹ, nửa thế kỷ bão giông. Tôi – thằng con trai một – lại là con út, nên được Mẹ cưng như trứng mỏng. Sau giờ Giao thừa, khi tiếng pháo từ phía đông, hướng Xuyên Trà, thôi đì đùng và ánh pháo sáng của những người đi tìm phế liệu không còn lấp lóe trên bầu trời núi Chúa là Mẹ diện áo the, thắp nhang ông bà rồi vẫy tôi lại, lôi từ chiếc túi rút vải ra 2 đồng tiền xu kẽm.

Tiền lì xì của Mẹ cho đó!

Tính tôi vốn cẩn thận từ bé. Tôi đem 2 đồng xu, chà sạch rồi cất tận trên gác trính, nơi “trú ẩn” của mớ bi ve.Tiền để lâu, quên mất. Chắc Mẹ cũng chẳng nhớ, cũng vì những cơn hen liên miên làm Mẹ nhọc nhằn, đãng trí. Vườn cây cà dược trong nhà trở thành thuốc trị hen của Mẹ, uống kèm thuốc Tây. Rồi cà dược hết, tôi – tuổi lên 10 – tuần dăm ba bữa đạp xe ra phố chợ mua thuốc trị hen cho Mẹ. Rồi tiền hết, Mẹ tự mình chống chọi với những cơn đau thắt ngực. Nhiều lúc, dường như Mẹ không phải cố sống cho mình, mà cho lũ con.

Tôi hay lén nhìn chị đấm lưng cho Mẹ, để hạ đàm, kéo cơn ho chết tiệt ấy xuống cho cơn đau qua đi. Rồi cái đêm ấy cũng đến, một đêm tháng 11 âm lịch lạnh lẽo, cơn ho đến không hẹn ước, Mẹ quờ tay, tìm thuốc, cũng là tìm lũ con. Chị bấn loạn. Tôi choàng dậy giữa cơn ngái ngủ của thằng bé con. Bất giác, sực nhớ mình còn 2 đồng xu Mẹ lì xì cho gần 1 năm trước, tôi leo lên trính…

Nửa đêm mưa gió, thầy thuốc ở xa, có tiền cũng chịu. Tôi nắm chặt 2 đồng xu lạnh lẽo, cắn răng nhìn chị khóc òa òa, cố nín.

Mẹ đi. Nhà có đám, người ta tập trung đông. Tôi trốn xuống bếp, ngồi cúi gằm mặt, lấy hòn than vẽ 2 vòng tròn, bỏ 2 đồng xu vào đó. Một đồng cho mẹ. Một đồng cho tôi…

Hai đồng xu ấy, đến Tết Quý Tỵ này đã tròn hai con giáp.
2. Phần lớn tuổi thơ trẻ của mình, tôi sống với Chị.

Thời Chị còn con gái, mỗi đầu tháng Chạp, Mẹ thường gọi Chị ra vườn, chỉ cho cách un vồng cải. Nhiều năm sau, cứ mỗi lần giáp Tết là vườn cải lên xanh, như Chị tôi đang thì con gái… Và tiếp sau những ngày ấy là xúng xính áo hoa, là thịt mỡ dưa hành, là những bữa cơm sum họp, chủ yếu là mừng thằng em đi xa trở về.

Tôi hiểu lòng Chị nên mỗi lần về Tết là tót ra dòm mấy luống cải, trầm trồ, rồi suốt mấy ngày Xuân, hầu như bữa nào cũng ghém cải. Luộc, xào, làm rau sống…, cải quê mình bao giờ cũng thơm ngon. Chị thấy, vui.

Những khi đã nửa đêm, đói cồn cào, tôi lội ra vườn bứt nhúm cải con vào làm rau ăn với mì sợi nấu xương. Bếp lửa tôi chọn luôn ở nơi chái bếp đằng sau chứ không phải chiếc bếp hộp ốp gạch láng trong nhà. Và như một thói quen, mỗi lần chờ nước sôi là tôi lại lấy hòn than vẽ 2 vòng tròn…

0coi2Mỗi khi nghe tiếng bếp tí tách, Chị luôn thức dậy cùng. Nhìn 2 vòng tròn tôi vẽ, không hiểu sao mắt Chị cứ buồn xa xăm.

Tháng Giêng về ngang ngõ, chừng mùng 10 là cải trổ ngồng. “Cải lên ngồng chưa chồng thì ế”. Chị buồn, chẳng do vội vàng lo chuyện ấy, mà vì nhà neo người khi thằng em lại đi xa. Tôi cứ nhớ mãi trong tâm tưởng cái màu vàng thao thiết ấy, bởi cứ như muốn níu kéo một cái Tết đã qua, bởi cứ như níu giữ một thời con gái, mà không được.Rồi Chị theo chồng, thấy nhà mình neo người, nên xin không ở dâu.

Tôi biết Chị thay Mẹ thương tôi, như thương thằng út.

Năm 2003, tôi mua cho Chị cái bếp gas. Từ bấy đến giờ, Chị vẫn dùng mỗi chiếc bếp gas ấy và vẫn không dỡ bỏ cái chái bếp sau nhà, thậm chí còn cơi nới rộng hơn. Vẫn còn đó chiếc om kiềng, cây đũa bếp, ống thổi lửa và những chạc củi đầy ắp. Tôi cứ tưởng đó là cái bếp “se-cua” để cho đỡ tốn gas.

Mới rồi, về trước Tết, ngồi ngẫm lại, thấy hổng phải.Tôi kéo thằng cháu ra chái bếp, hỏi vì sao. “Mẹ nói là làm chi thì làm chứ phải đế cái bếp ấy cho cậu…”.Khói không hun mà sao thấy cay xè trong mắt. Trong đời mỗi người, Mẹ và Chị bao giờ cũng đẹp. Có khi hai mà như một.

Lần này, chiều cuối năm lần thứ ba trong đời tôi ăn Tết xa nhà. Tôi chạy xe thật chậm giữa Sài Gòn thênh thang, thảng hoặc bắt gặp những màu vàng hoa cúc, vạn thọ… ven đường, chợt nhớ nhà khủng khiếp. Bữa có người ghé thăm, cũng nói “thấy nhớ quê anh”, khiến lòng thêm bồi hồi. Mấy câu thơ cũ bật lên trong đầu, rất quen:

Hoàng hoa linh lạc vô nhân khán
Độc tự khuynh tâm hướng thái dương.
(Hoa vàng rơi không ai thấy/ Chỉ một mình hướng lòng về phía mặt trời).

Thấy sao được, khi giữa dòng ngược xuôi cuối năm đầy thổn thức ấy chỉ có một bóng hình… “Chị ơi, em cưới mùa Xuân nhé! Đốt pháo cho thơm với rượu hồng”… (Xuân tha hương, Nguyễn Bính).


Con gái có nên uống rượu rắn không ?

Con gái có nên uống rượu rắn?

Chị Cú Mèo ơi, có phải rắn ngâm rượu uống rất tốt cho sức khỏe không? Em là con gái thì phải ngâm con rắn gì, ngâm bao lâu để uống cho đẹp da? (Bích Mai)

Em Bích Mai thân mến!

Theo kinh nghiệm dân gian, rắn ngâm rượu cùng với một số vị thuốc uống vô sẽ rất có lợi cho sức khỏe.Nhưng chị cũng thú thực, đấy chỉ là truyền thuyết thôi. Cho tới phút này, chưa có nhà khoa học nào chứng minh điều đó.Và việc ngâm con rắn gì, ngâm bao lâu, uống như thế nào lại rất tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Mỗi ông một kiểu, chả ai giống ai.

Cá nhân chị cho việc dùng rắn ngâm rượu và bảo rằng nó bổ dưỡng hoàn toàn cảm tính. Chẳng qua thiên hạ thấy con rắn khỏe mạnh, hung hăng lại có thân hình kỳ quái thì cảm thấy cho nó vào rượu sẽ được thừa hưởng những đức tính đó mà thôi.Chả cứ gì con rắn, bao nhiêu con khác, hễ có ngoại hình hơi đặc biệt hoặc hơi quý hiếm là thiên hạ cho vào rượu tất. Nào bìm bịp, nào tắc kè, nào cọp, nào gấu, nào sâu bọ. Hễ loài nào có vẻ “độc” là loài đó được ngâm ngay.

Chị rất buồn cười thấy những thứ thiên hạ ăn hằng ngày, chắc chắn tốt lành, bổ dưỡng cả trăm năm nay như heo, gà, vịt chả ai ngâm. Đơn giản vì chúng có hằng ngày, người ta chả thấy quan trọng.Thử hỏi, chúng ta dùng bao nhiêu sản phẩm từ con bò? Cả thịt, cả da, cả sữa của nó đều có lợi hết. Nhưng chả ai mang bò ngâm rượu do bò quá hiền.Việc uống rượu rắn ngâm thực ra không hoàn toàn vô hại, ít nhất đối với môi trường và thảm họa với loài rắn. Em thử nghĩ cả ngàn, cả vạn chai rượu được sản xuất, mỗi chai bên trong có ba, bốn, năm con rắn thì ôi thôi, rắn tiêu đời.Rất nhiều dân trên rất nhiều quốc gia rất khỏe mạnh, thông minh, lịch sự và học thức cả đời chưa hề uống một giọt rượu rắn nào, đã vậy, họ còn cho đấy là ghê và bất hợp pháp, chị nghĩ em cũng nên tham khảo điều này.

Còn nếu em là con gái nhưng vẫn cương quyết mang khát vọng thưởng thức rượu rắn thì chị cũng không cản, và chắc cản cũng không được. Nếu vậy, em cần chọn những con rắn khỏe mạnh, sạch sẽ, có thể ngâm ngũ xà hoặc tam xà. Hãy cẩn thận vì rất dễ mua phải rượu dỏm hay rắn dỏm, tác hại vô cùng.

Chắc em ngạc nhiên khi nghe nói có rượu rắn giả. Đó là những con rắn nước, rắn rẻ tiền được người ta phù phép thành rắn hổ, sau đó ngâm vào chai. Khối anh, khối cụ đã bị lừa, nói gì tới các cô gái.Dù sao, là con gái, nếu có uống rượu rắn, em phải kín đáo và âm thầm, đừng cho ai nhìn thấy. Chị tin chắc nếu bạn trai em mục kích cảnh này, chàng sẽ cao bay xa chạy, lướt nhanh còn hơn cả con rắn nữa.Còn thứ rượu nào uống vào da dẻ hồng hào, chị không thể biết và chị cũng chả tin là có. Mặt hồng thì có, nhưng sau đó tái ngay.

Chị Cú Mèo


Vũng Tàu ăn Tết ra sao ?

Chỉ còn 1 ngày nữa là đến Tết Nguyên đán Quý Tỵ 2013. Đây là thời kỳ cao điểm để mua sắm Tết. Vì vậy, từ các chợ đến siêu thị, đâu đâu cũng thấy tấp nập kẻ bán, người mua. Điều đáng nói là mặc dù sức mua tăng mạnh nhưng giá cả nhiều mặt hàng vẫn ổn định. 

Chợ phố: mua gì cũng có

Ngày 5-2 (tức ngày 25 tháng Chạp), đã gần 10 giờ trưa nhưng sạp dưa hành, củ kiệu của chị Cao Thị Bích Thịnh, chợ Vũng Tàu vẫn đông khách. Chị Thịnh cho hay, trong mấy ngày gần đây sức mua các mặt hàng này bắt đầu tăng mạnh, mỗi ngày chị cũng bán được khoảng 40 kg dưa hành, củ kiệu làm sẵn các loại. Giá bán các mặt hàng này cũng chưa tăng nhiều: dưa chuột muối chua sẵn có giá 140.000 đồng/kg, củ cải và củ kiệu (làm sẵn) 100.000 đồng/kg, củ hành 60.000 đồng/kg. ảnh dưới mua hàng gia dụng tại chợ Vũng Tàu. Ảnh: THU THẢO 

72

Không khí mua sắm ở nhiều quầy sạp khác như giày dép, quần áo, đồ dùng gia đình… cũng nhộn nhịp không kém. Tại quầy hàng gia dụng ở chợ Vũng Tàu, bác Bình, nhà ở 383/41 Bình Giã, TP. Vũng Tàu đã chọn mua được một bộ chén bát bằng sứ hiệu CK, hàng Việt Nam khá ưng ý. Bác Bình nói: “Ở nhà, chén bát vẫn còn nhiều nhưng năm mới vẫn muốn có cái mới nên mua thêm”. Tìm hiểu người tiêu dùng trong mấy ngày qua ở các chợ, siêu thị cho thấy, năm mới ai ai cũng muốn mua sắm thêm những vật dụng mới kể cả những thứ nhỏ nhất như xoong, nồi, rổ rá… nên mặt hàng này được tiêu thụ khá mạnh. Chị Trần Thị Kim Hoàng, chủ quầy sạp hàng da dụng ở chợ Vũng Tàu cho biết: Trong mấy ngày gần đây, trung bình mỗi ngày, quầy hàng của chị cũng bán được 2-3 triệu đồng, tăng gấp đôi so với ngày thường. Ông Lưu Đức Lục, Trưởng ban quản lý chợ Vũng Tàu nhận xét: Từ thứ 7 tuần rồi, 2-2, đến hôm nay, người dân đến chợ mua sắm Tết tấp nập. Trong đó sức mua chủ yếu tập trung vào các nhóm hàng thực phẩm và may mặc và hàng gia dụng.

Giá bán hầu hết các mặt hàng trên thị trường Tết hiện nay vẫn ổn định. Đây là điểm khác biệt của thị trường hàng tết năm nay so với những năm trước. Những mặt hàng thường bị lâm vào tình trạng tăng vô tội vạ vào dịp tết như thịt heo, thịt bò, thịt gia cầm sạch, trái cây các loại, rau củ các loại đến hôm nay, 6-2, vẫn giữ mức giá cũ. Cụ thể, giá bán đối với mặt hàng thịt heo từ 70.000 đồng – 120.000 đồng/kg, thịt bò có giá từ 170.000- 240.000 đồng/kg, vịt nguyên con làm sẵn 75.000 đồng/kg, gà 130.000 đồng/kg, cá thu cắt khúc 110.000 đồng/kg. Theo tiểu thương ở các chợ Vũng Tàu, phường 1, chợ phường 7 thì các loại rau củ quả vẫn giữ ở mức cũ. Hiện nay do nguồn cung dồi dào nên giá súp lơ vẫn ở mức 12.000 đồng/kg, củ cải đỏ 15.000 đồng/kg, củ cải trắng 5.000 đồng/kg, cải dưa 7.000 đồng/kg, khổ qua 10.000 đồng/kg, bí đỏ 7.000 đồng/kg, đậu que 10.000 đồng/kg, bắp cải 9.000 đồng/kg.

Bà con tiểu thương cho biết, thời điểm này, giá các mặt hàng không có sự tăng giá đột biến. Tuy nhiên, một số mặt hàng thiết yếu trong dịp tết như thực phẩm tươi sống, rượu, bia, nước giải khát, quần, áo, bánh, mứt, kẹo, hoa, quả… có thể sẽ tăng nhẹ vào ngày 27, 28, 29 Tết khi người tiêu dùng đẩy mạnh việc mua sắm Tết. 

Gánh ve chai cuối năm

Với hy vọng có một cái tết đủ đầy hơn, đầm ấm hơn, những người lao động nghèo từ các miền quê làm nghề buôn ve chai ở TP. Vũng Tàu như đang chạy đua với thời gian và cuộc mưu sinh cuối năm. 

Trong không khí hối hả của những ngày cuối năm, nhiều người buôn ve chai vẫn cần mẫn với công việc mưu sinh như bao ngày khác. Dường như ngày tết càng cận kề thì họ càng mong cuộc mưu sinh sẽ may mắn hơn và cố gắng làm việc nhiều hơn để có thêm thu nhập, chuẩn bị cho một cái tết đầy đủ hơn cùng gia đình.

72b

Với đôi quang gánh, hàng ngày, cô Nguyễn Thị Xì (quê ở Bình Đình) đi bộ hàng chục km để mua ve chai.

“Ve chai bán… ơ” là tiếng rao hàng ngày theo cô Nguyễn Thị Xì (53 tuổi, quê Bình Định) đi khắp các ngõ hẻm của TP. Vũng Tàu. Dáng người nhỏ nhắn, gầy guộc, khoác trên mình bộ quần áo xộc xệch, cô bước nặng nhọc với gánh ve chai trĩu nặng trên vai. Thỉnh thoảng mỏi vai cô Xì lại ghé vào lề đường nghỉ chút rồi lại đi tiếp. Cô Xì cho biết, ở quê, gia đình cô có ít ruộng nên không đủ ăn. Chồng cô mất sớm vì bệnh tật, một mình cô phải cố gắng xoay xở để nuôi ba đứa con ăn học. Đã thế, hoàn cảnh gia đình lại khó khăn, cô không có vốn liếng để buôn bán, những nghề khác ở quê cũng khó kiếm tiền nên cô quyết định gửi con ở nhà cho bà ngoại, một mình khăn gói vào TP. Vũng Tàu buôn bán ve chai đã 5 năm nay. Để tiết kiệm tiền chi phí sinh hoạt, cô cùng 3 người “đồng nghiệp” thuê một căn phòng trọ với giá 1 triệu đồng/tháng ở đường Hoàng Hoa Thám. “Chỗ ở tuy chật hẹp nhưng đông người nên cũng vui, lại tiết kiệm được tiền thuê nhà. Mình đi cả ngày, tối mới về ngả lưng, cũng chẳng cần phòng rộng làm gì cô ạ”, cô Xì phân bua.

Mỗi ngày, cô quẩy đôi quang gánh đi bộ hàng chục cây số qua các con đường, góc hẻm tìm mua ve chai. Từ đầu năm đến nay, việc làm ăn của cô Xì cũng như nhiều “đồng nghiệp” khác gặp khó khăn. Nhưng vào thời điểm cận tết, người dân thành phố dọn dẹp, chỉnh trang nhà cửa và loại bỏ đồ cũ thì những người buôn ve chai như cô cũng kiếm được kha khá. Hôm gặp chúng tôi mới đầu buổi sáng mà gánh ve chai của cô đã đầy hơn những ngày trước. “Những ngày may mắn, có nhiều người bán, tôi cũng kiếm được 100.000 đồng/ngày, nhưng cũng có ngày chỉ được vài chục ngàn thôi. Nhưng những ngày giáp tết thì gánh ve chai trên vai tôi luôn đầy ắp. Thỉnh thoảng, có chủ nhà bán ve chai quen còn kêu tôi đến giúp dọn dẹp nhà cửa với công 20.000 đồng/giờ tôi cũng cố gắng thu xếp để làm thêm. Tranh thủ những ngày giáp tết tôi cố gắng đi sớm, về muộn để kiếm thêm chút đỉnh lo cho các cháu ăn học và có cái tết tươm tất hơn”, nói đến con, ánh mắt cô Xì vui hẳn ra.

Còn cô Lâm Thị Trà (quê Quảng Ngãi) thì cả nhà cùng làm nghề buôn ve chai ở TP. Vũng Tàu. Hơn 5 năm trước, cô cùng chồng vào TP. Vũng Tàu làm ăn. Cô cho biết, tuy công việc vất vả nhưng ở đây làm ăn dễ hơn ở quê. Vì vậy, cô còn rủ thêm vợ chồng người con trai đầu vào cùng hành nghề. Căn phòng trọ chật hẹp có giá thuê 800.000 đồng/tháng ở đường Xô Viết Nghệ Tĩnh là nơi chung sống của 4 người thuộc hai thế hệ trong gia đình cô Trà. Hàng tháng, ngoài các khoản chi tối thiểu, còn lại cô chắt bóp gửi cho con gái út đang học đại học ở TP. Hồ Chí Minh.

Hàng ngày, trên đường phố ta vẫn gặp những bước chân cần mẫn của bao người như cô Xì, Cô Trà. Những ngày tết cận kề, dường như bước chân của họ càng trở nên hối hả hơn để mong kiếm thêm được nhiều tiền lo tết. Dù cuộc mưu sinh còn vất vả nhưng họ cũng không quên hướng về mùa xuân với những niềm hy vọng. Cô Nguyễn Thị Xì vẫn lạc quan, tin rằng sang năm mới, công việc sẽ gặp nhiều may mắn, thuận lợi hơn, các con cô sẽ được học hành đến nơi đến chốn để sau này cuộc sống đỡ vất vả và không phải sống cảnh tha hương như cô. Còn chị Trần Thị Loan (quê Thái Bình), bán băng đĩa nhạc dạo thì hy vọng, những ngày giáp tết, những đĩa nhạc về mùa xuân sẽ bán chạy hơn để chị có thêm tiền kịp về quê sum họp cùng gia đình sau những tháng ngày bươn chải kiếm sống. 

Bài lấy từ báo Bà Rịa Vũng Tàu


Đêm đầu tiên ở đường hoa Nguyễn Huệ 2013

Buổi tối đầu tiên ở đường hoa Nguyễn Huệ 2013


Nhớ Sài Gòn, nhớ… cà phê !

 Lần đầu tôi “chạm mặt” Sài Gòn là một ngày mùa hè hơn mười năm về trước. Đó là hành trình đi dọc đất nước từ Hà Nội tới Sài Gòn, bằng xe lửa. Tôi vẫn còn nhớ nguyên cảm giác ngồi ghế cứng mỏi đến ê ẩm người trên chuyến tàu đằng đẵng gần hai ngày đêm. Trước đó, tất nhiên, tôi chỉ biết đến Sài Gòn qua sách vở, phim ảnh, hay những lời kể…

ca1

Chuyến đi đầu tiên đó, tôi đi một mình, như một kiểu du lịch bụi. Ngày đó, ở Sài Gòn tôi không có họ hàng, bạn bè thì có… mỗi một người. Người quen duy nhất đó là một nhà thơ trẻ mà chúng tôi mới chỉ gặp nhau… trên điện thoại, biết nhau qua những bài thơ trên báo. Bạn đón tôi ở ga Hoà Hưng. Không hiểu sao, và tự trách mình; sau này nhiều lần đi Sài Gòn (bằng máy bay), tôi cũng chưa từng trở lại nơi bước xuống đầu tiên ấy. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh lưu niệm chụp ở ga Hoà Hưng với chiếc đầu tàu; chẳng biết bây giờ nhà ga như thế nào, chiếc đầu tàu ấy còn hay không? Về sau có nghe nói nhiều về chuyện quy hoạch lại hệ thống đường sắt và nhà ga thành phố; luân chuyển, di dời…; tôi không biết và không để ý số phận ga Hoà Hưng như thế nào, bởi ngoài một lần khác tới Sài Gòn bằng ôtô từ thành phố cao nguyên Đà Lạt, thì những lần còn lại tôi đều xuống phi trường Tân Sơn Nhất.Nhưng cái cảm giác khi tàu vào ga, kết thúc hành trình dài đằng đẵng; cảm giác đặt bước chân đầu tiên xuống đất Sài Gòn như vẫn còn vẹn nguyên. Cái gì đầu tiên cũng nhớ, cũng in sâu đậm trong ký ức, cũng trở thành kỷ niệm không phai…

2. Việc đầu tiên khi tới Sài Gòn là mua một tấm bản đồ thành phố. Tấm bản đồ ngày ấy tôi vẫn giữ và việc mua bản đồ trở thành thói quen khi lần đầu bước chân tới bất cứ tỉnh thành, vùng miền nào. Nhìn trên bản đồ, Sài Gòn là thành phố của sông ngòi, kênh rạch với cơ man là cầu với cầu. Lúc ấy, lại nhớ câu hát của nhạc sĩ họ Trịnh: “Nhớ đường dài qua cầu lại nối, nhớ những con sông nối bao dòng kinh…” Đó là cảm giác đi trên mặt đất. Phải đến khi lần đầu bay trên bầu trời Sài Gòn và hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất, tôi mới thực sự kinh ngạc và mê mẩn khi thấy dòng sông Sài Gòn uốn khúc trong lòng thành phố. “Bay” tới Sài Gòn hay “bay” rời Sài Gòn, bằng bất cứ giá nào tôi cũng phải ngồi cạnh cửa sổ, chỉ để lấy vài phút chụp không ảnh khi hạ cánh và cất cánh. Nếu như bay trên bầu trời Hà Nội, trời đẹp, khi cất cánh và hạ cánh cũng có thể nhìn thấy sông Hồng, thì trung tâm thành phố vẫn còn xa; nhưng ở Sài Gòn, là bay ngay trên đầu thành phố, ngay bên trên dòng sông Sài Gòn, nhìn thấy rõ những cây cầu, những con đường, những ngôi nhà… Một Sài Gòn hoa lệ và náo nhiệt ở phía dưới đang chờ đón.Tôi có thói quen giữ và dùng đồ cũ. Sài Gòn bây giờ đã khác quá nhiều so với tấm bản đồ mười năm trước. Những quận mới, những đường mới, những cây cầu mới và những công trình mới… nhiều khi làm tôi gặp khó khăn khi tra cứu và tìm đường. Nhưng điều đó lại làm tôi thích thú; cùng với cảm giác về sự trải nghiệm thời gian.

ca2

3. Những ngày đầu, những lần đầu, Sài Gòn cho tôi nhiều ngỡ ngàng, dù đã biết trước, đã chuẩn bị tinh thần trước. Sài Gòn khác Hà Nội. Nhiều người ví von và coi như đó là một sự tương phản của mới và cũ, của nhanh và chậm, của năng động và bảo thủ, của hiện đại và lạc hậu… Tôi không muốn và không có ý so sánh chuyện hay – dở của vùng miền (điều đó là không nên); nhưng những so sánh trên không phải là không có lý, nhìn trên một góc độ nào đó. Và tất nhiên, điều đó cũng không có nghĩa là cái này tất cả đều hay, và cái kia toàn là dở. Sài Gòn đẹp, Sài Gòn phồn hoa đô hội, Sài Gòn lịch lãm, Sài Gòn là nơi đất lành chim đậu, ôn hoà và bao dung, sẵn lòng đón nhận và chở che. Sài Gòn là bến đỗ của nhiều cuộc dịch chuyển đời người. Dường như ở đó, người ta thấy mình được tự do hơn, thoải mái hơn, được là mình hơn; và cả một lý do rất cụ thể của cuộc sống: ở đây dễ kiếm sống hơn. Đất Sài Gòn, văn hoá Sài Gòn, người Sài Gòn… là một sự hợp lưu, nhưng lại hình thành nên một nét riêng, một chất riêng không thể lẫn. Và kỳ lạ thay, trong cái chung của dòng chảy hợp lưu mang tên Sài Gòn đó, những nét riêng khác vẫn tồn tại vẫn lấp lánh, toả sáng, và không hề có sự mâu thuẫn hay xung đột nào.

Tôi vẫn nhớ một kỷ niệm trong lần thứ hai tới Sài Gòn, cũng lâu rồi. Lần đó tôi có một anh bạn đồng nghiệp người Bắc vào đây làm việc dẫn đi càphê. Lúc đó là mùa đông. Anh dẫn tới quán Gió Bắc gần hồ Con Rùa (chẳng biết quán đó giờ còn không, tôi cũng chưa từng trở lại); bảo rằng: mùa đông ngồi Gió Bắc cho nhớ Hà Nội. Tôi gọi “càphê sữa nóng” (đã biết cách gọi trong này, thay vì “nâu nóng” như ở Hà Nội); người phục vụ nghe không rõ, vì tôi nói nhỏ hay nhạc bật hơi to; nghe thành “sữa nóng” và mang ra như vậy. Tôi thắc mắc về chuyện nhầm lẫn đồ uống, và ngay lập tức được xin lỗi và được đổi thứ mà tôi cần. Anh bạn tôi cười bảo: Thấy Sài Gòn khác chưa? Sài Gòn là như thế đó. Nếu ở Hà Nội là… cãi nhau ngay! Quả thực điều đó làm tôi bất ngờ và… xúc động, không khỏi ngầm so sánh với cách phục vụ, mà cho tới bây giờ vẫn là một vấn đề rất nhiều người mang ra làm câu chuyện càphê vỉa hè nhưng hoàn toàn nghiêm túc.

ca3

Vài tháng trước, tôi gặp kiến trúc sư TMD ở Hà Nội. Anh là người Hà Nội, nhưng đã sống ở Sài Gòn mấy chục năm. Gặp anh khi anh vừa đi tới một dịch vụ trở về. Vừa gặp, anh đã thở dài, than cái chuyện dịch vụ và thái độ phục vụ ở Hà Nội bao giờ được như Sài Gòn!? Liệu đó có phải là văn hoá; và văn hoá hình như không hẳn là cái gì đó xa vời, hay là những chuyện chữ nghĩa cao siêu?

4. Sài Gòn khác và đổi mới từng ngày, ngay cả người Sài Gòn cũng thấy vậy. Có người nói rằng lâu lâu không ra phố, đến lúc đi giật mình thấy thêm vài cao ốc, thấy những con đường đã khác xưa. Tôi đã quen Sài Gòn, không còn những bỡ ngỡ của mười năm trước, nhưng vài tháng gặp lại Sài Gòn là khoảng thời gian đủ dài để lại có những bỡ ngỡ theo một cách khác với những đổi thay. Đã có trong tôi những cảm nhận nuối tiếc và buồn thay vì sự thích thú, thán phục, mê đắm của ngày trước. Vẫn biết rằng cuộc sống không dừng lại và không có gì là bất biến, nhưng nỗi buồn vẫn là nỗi buồn. Hoài niệm là tình cảm, là tâm trạng của rất nhiều người, chẳng phải của riêng tôi, huống hồ tôi chỉ mới có mười năm ký ức.

Dẫu vậy, nhớ Sài Gòn là cảm giác thường trực trong tôi. Nếu hỏi nhớ nhất điều gì hay cái gì thì cũng thật khó trả lời; bởi mỗi lúc, mỗi thời điểm, mỗi tâm trạng lại gợi đến những nỗi nhớ, những cảm xúc khác nhau. Và mỗi lần “gặp” Sài Gòn cũng đem lại những cảm xúc khác nhau, những suy nghĩ khác nhau. Sài Gòn t rong tôi, vừa quen – vừa lạ; vừa cũ – vừa mới. Có những khi nỗi nhớ trỗi dậy cồn cào mà tự mình cũng không biết tại sao. Có những khi muốn đi mà lại kìm lòng mình lại, để nhớ nhiều hơn, để yêu nhiều hơn; bởi hình như cái gì nhiều quá cũng dễ chán, làm người ta mệt mỏi. Sự lưng chừng, chấp chới, dang dở lại có thể là đẹp và ý nghĩa nhiều hơn?!

ca4

Có những lần tôi đi Sài Gòn chẳng vì một lý do gì cụ thể, hoặc vì một lý do… nhỏ xíu; theo như cách nghĩ thông thường là không cần thiết. Bạn bè hỏi đi công tác, hay có việc gì? Tôi cười và trả lời: Vô Sài Gòn chỉ để uống càphê thôi, nhớ càphê Sài Gòn. Thực ra, cũng chẳng phải là không đúng!

Sài Gòn, nhớ…

Tôi một người Vũng Tàu , “nhập kho” và trở thành người Sài Gòn gần 40 năm rồi.Sài Gòn trải qua nhiều biến cố thăng trầm nhưng  vẫn thế ,vẫn hào sảng ,vẫn tinh tế ,vẫn linh hoạt … đến từng góc phố ,từng con hẻm,từng mái nhà….Những năm sau này  tốc độ đô thị hóa chóng mặt , dân nhập cư ào ạt ,Sài Gòn vẫn thu vén và chấp nhận tất cả.Lang thang khắp nước ,ra nước ngoài kể cả sang Mỹ … bất kỳ nơi nào dù hay ho đến mấy ,miệng vẫn lẩm bẩm chẳng đâu bằng Sài Gòn của tôi.Vì vậy xin mượn người Hà Nội nói về Sài Gòn .Dừng nhé đi uống cafe cuối tuần với bạn thôi,không chừng sau đó đi nhậu đến tối luôn, Sài Gòn mà,dân chơi thứ thiệt là vậy,chắc luôn !


Muôn đời sự thật vẫn là sự thật

Muôn đời sự thật vẫn là sự thật

 trang này đăng loạt bài tư liệu súc tích,kỷ niệm 45 năm biến cố Mậu Thân 1968.Hãy click vào dòng chữ “Muôn đời sự thật vẫn là sự thật“.Ở Việt Nam muốn vào phải ” trèo tường “

AMT

Gần nửa thế kỷ trôi qua kể từ  sau Biến Cố Mậu Thân 1968, vụ thảm sát vẫn là một vết thương chưa lành, “vẫn còn đau mỗi khi trái gió, trở trời.” Người dân Huế sẽ vẫn tiếp tục sống, tiếp tục vươn lên, đó cũng chính là cá tính của người dân đất thần kinh. “Vết thương đó vẫn chưa khô máu, vết sẹo đó mỗi lần trái gió trở trời vẫn đau đớn xót xa.” Hãy nghe bốn câu thơ này của Hoàng Phủ Ngọc Tường:

 “Những  chiều Bến Ngự  giăng mưa

Chừng  như  ai đó mơ hồ gọi tôi

Tôi ra mở  cửa đón người

Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang!

(Ðịa Chỉ Buồn)


‘Cái quan luận định’

Người xưa có câu “Cái quan luận định” là khi người chết, đậy nắp quan tài rồi thì lời khen chê, luận công tội mới chính xác, nhưng cũng có câu “nghĩa tử là nghĩa tận” chết là hết, mọi sự thù hận nên bỏ qua, tương tự như một thành ngữ Pháp: “Laissez les morts tranquille” là hãy để yên người đã chết, nghĩa là không nói đến nữa!

Pduy

Gia đình Ban Hợp Ca Thăng Long. Từ trái sang phải (hàng sau): Phạm Duy, Hoài Bắc, Hoài Trung; (Hàng trước): Thái Hằng, Khánh Ngọc, Thái Thanh.

Ðối với người Việt ly hương, Nguyễn Cao Kỳ và Phạm Duy là những tên tuổi lớn của Việt Nam, nói cho đúng là miền Nam một thời loạn ly, đều là những người Việt từ miền Bắc di cư vào Nam, vui buồn trong một đất nước chiến tranh, lại một lần nữa bỏ nước ra đi trong một lúc đau đớn tột cùng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhưng cuối cùng cả hai lại trở về chốn cũ, kiểu “nếu đi hết biển” thì trở lại ngôi làng xưa như luận điệu và cách nói của Trần Văn Thủy.

Dư luận đã không hề để cho hai ông này yên nghỉ sau khi nằm xuống. Những quân nhân đã sống chết dưới cờ để cho vị tướng nắm giữ vận nước, đã bất bình khi thấy ông phản bội lại họ. Phạm Duy lớn hơn tất cả các lãnh tụ chính trị một thời, nhạc của ông là mãi mãi, nhạc của ông “khóc cười theo vận nước nổi trôi” cũng như mảnh đời của hàng triệu người bỏ quê hương xứ sở lánh nạn cộng sản vào Nam, qua những ngày chiến tranh bom đạn hay thanh bình. Ai là người lính chiến mà không rung cảm thiết tha cùng buồn với Phạm Duy trong hình ảnh “anh trở về, bại tướng cụt chân” hay “anh trở về chống nạng cày bừa!” Tuổi Sài Gòn mới lớn ai mà không nhớ “con đường Duy Tân, cây dài bóng mát,” có ai mà không một thuở theo ai đó trên con đường: “Em tan trường về…” Họ yêu Phạm Duy đến mức nào, những danh xưng “đại thụ” hay “cổ thụ” chỉ mô tả phần xác, nhưng phần hồn còn cao đẹp, lớn lao biết chừng nào. Người Việt tị nạn cũng như Phạm Duy cùng là bầy chim bỏ xứ, cùng chung cái nỗi niềm đau đớn đánh mất quê hương. Thế mà thần tượng của họ một sớm một chiều xử sự như một cánh chim đơn lẻ, bỏ bầy để trở lại chốn xưa một mình, gây nỗi bất bình lớn cho thiên hạ.

Ở cái đất nước nhỏ bé này, sau năm 1954, miền Bắc hầu như đã quên hẳn Phạm Duy hay nhà nước đã không muốn người ta nhớ đến Phạm Duy, vì lý do chính trị, nhạc của ông bị cấm hoàn toàn tại miền Bắc Việt Nam sau 1954, và toàn Việt Nam sau 1975, nhưng ở miền Nam, nhạc Phạm Duy đến với mọi nhà, đó là thời gian Phạm Duy là ngôi sao sáng trong nền âm nhạc tự do của miền Nam.

Phạm Duy là khuôn mặt của công chúng, có yêu thì có ghét, hay vì quá yêu nên quá ghét, là thần tượng, khi thần tượng sụp đổ, thì người hâm mộ thất vọng, tưởng có thể tự sát hay chết theo thần tượng. Cũng có khi vì quá yêu, người ta sẵn sàng giết chết thần tượng của mình để giữ độc tôn sở hữu, hay như Chapman, người đã bắn vào ca sĩ nhạc Rock John Lennon 5 phát súng, đã khai rằng hắn muốn giết John Lennon để được nổi tiếng. Số người tự tử sau cái chết của Michael Jackson ước tính đã lên tới 12 người.

Cho nên, chúng ta không lấy làm lạ, chỉ sau khi nghe tin Phạm Duy qua đời, hàng trăm bài viết trên báo chí và trên “lưới” đã tung lời ca tụng ông hay nặng lời chê trách. Ðó là số phận của những người nổi tiếng trên thế giới.

Phạm Duy cũng là thần tượng của tôi. Năm 1951, khi Phạm Duy “Dinh tê” cũng như những thiếu niên mới lớn lên thời đó, tôi đã mê những bài nhạc kháng chiến như Bà Mẹ Gio Linh, Nương Chiều, Về Miền Trung… được phổ biến rộng rãi trong vùng đất tự do. Tôi cũng đã từng ngồi nắn nót chép lại một bài thơ nói là của một “bà mẹ” nào đó ở “bên tê” viết cho Phạm Duy khi ông trở về thành. Ở miền Nam tôi thích nghe những bài thơ phổ nhạc của ông, đã đưa nhiều thi sĩ trở thành tên tuổi, ra khỏi địa hạt của thi ca, “bên ni” như Nguyễn Tất nhiên, Phạm Thiên Thư, Lê Thị Ý, Linh Phương, Cung Trầm Tưởng, Phạm Văn Bình… hay “bên tê” như Huy Cận, Hữu Loan, Lưu Trọng Lư, Hoàng Cầm, Thế Lữ…

Sau cái tháng 4 oan nghiệt, khi đi tù, bị đưa ra Việt Bắc, không buổi chiều nào, trên đường thất thểu về trại, mà không liên tưởng đến lời nhạc của Phạm Duy “trâu bò về dục mõ xa xôi, hỡi chiều!” Hồi niên thiếu nghe câu hát này, tôi cứ ngỡ là vào buổi chiều, người ta đánh mõ để gọi trâu về, có ngờ đâu, ở Việt Bắc, người ta đeo mõ vào cổ trâu để theo dõi bước đi của đàn trâu, vì khi trâu gặm cỏ, tạo nên tiếng mõ lốc cốc.

Vậy thì tôi cũng có quyền phát biểu dăm câu về con người mà tôi đã yêu mến từ tuổi ấu thơ cho đến lúc biết yêu và trưởng thành, tù tội và… lưu vong.

Theo tôi, trong Phạm Duy có hai con người đối chọi, khác biệt và mâu thuẫn nhau mà một người bình thường như tôi hay các bạn không có được, hay không làm được, như giữa trắng và đen, cao thượng và thấp hèn, đẹp đẽ và xấu xa…

Nhiều khi tôi không hiểu nổi được Phạm Duy! Khi ông rời bỏ cộng sản, trong không khí tự do, mọi ưu đãi đã được dành cho người nghệ sĩ có tài, năm 1953, sau khi vào Nam, ông được đi Pháp học dự thính hai năm về âm nhạc, được cử đi Phi Luật Tân, Nhật Bản, Thái Lan để giới thiệu văn nghệ Việt Nam, và được Hoa Kỳ mời sang thăm viếng năm 1966, bốn năm sau ông lại có dịp đi Mỹ với tư cách là cố vấn cho Bộ Thông Tin VNCH.

Những năm 1967-1968, khi người Mỹ tham chiến đông nhất ở Việt Nam, hàng loạt ban nhạc lấy tên tiếng Anh ra đời trong đó có “The Dreamers” của các con Phạm Duy, đây cũng là thời gian băng cassette thịnh hành, giúp ông và gia đình trở nên giàu có.

Ra hải ngoại, Phạm Duy vĩ đại và tự do như cánh chim bằng đã đi nhiều nơi trên thế giới, tự do ca hát… vậy mà ở tuổi 85, ông lại muốn về nước, nộp đơn xin “Nhà nước Việt Nam” cho phép phổ biến 9 ca khúc cũ của ông vốn thịnh hành và phổ biến ở miền Nam, trong đó có 5 ca khúc viết trong “thời gian dân tộc kháng chiến chống Pháp”(!) và 4 bài thơ phổ nhạc, trong đó có tác giả ba bài thơ là người của đảng: Xuân Diệu, Huy Cận và Hữu Loan, nhưng không hề được nhà nước đoái hoài. Thậm chí cho đến 7 năm sau, trước lúc sắp chết, Phạm Duy còn nói: “Tôi là Phạm Duy, nhạc sĩ đã được hồi tịch và cư ngụ tại 349/126 đường Lê Ðại Hành, phường 13, quận 11, TP. Hồ Chí Minh, thực tế đã là một công dân Việt Nam từ năm 2005… Tôi nghĩ rằng tôi có quyền nuôi một nguyện vọng đóng góp vào sinh hoạt âm nhạc trong nước bằng một ca khúc có tính chất xưng tụng nước ta nhan đề ‘Việt Nam, Việt Nam’ sáng tác từ 1960, rút trong trường ca Mẹ Việt Nam là một tổ khúc kêu gọi sự đoàn kết dân tộc dưới bóng Mẹ Tổ Quốc thiêng liêng và độ lượng. Sau đây là ca khúc đó. Tôi mong có ngày ca khúc này được phép phổ biến (kèm theo là một CD với hai bản hợp ca hát bài Việt Nam, Việt Nam!).” Khó mà chịu được thái độ này!

Tác giả những câu thơ mượt mà, “Tìm nhau trong hoa nở/ Tìm nhau trong cơn gió/ Tìm trong câu thơ cổ/ Tìm qua tranh Tố Nữ/ Tìm nhau trong thống khổ/ Tìm nghe câu than thở!” lại là tác giả của những câu “tục tĩu”: “Nhìn lồn”, “Cầm cặc!” Phải chăng trong thế gian, “có tài thì có tật!”

Phạm Duy từ Việt Bắc về Hà Nội không cần phải xin phép nơi đến. Ông từ Bắc di cư vào Nam không cần lệnh lạc của ai. Ông đến Mỹ không cần ai cấp visa. Vậy mà ông phải cậy cục, nhờ vả, vận động khi muốn trở lại Việt Nam. Hình ảnh thần tượng tân nhạc Việt Nam khoe cái CMND và miếng giấy “hộ khẩu” làm cho người ta, những người thương yêu ông, điên tiết.

Ông danh giá, cao sang, vĩ đại và bất diệt hơn mọi thứ ấy.

Ông đã từng phổ lời thơ “làm sao giết được người trong mộng…”

Ðã hơn nửa thế kỷ trôi qua, chúng tôi đã cùng ông “cười khóc theo mệnh nước nổi trôi,” giờ đây vận nước đang còn trôi nổi, không biết mất còn ra sao, ông không còn khóc cười, buồn vui với chúng tôi nữa.

Nhưng Phạm Duy là vậy; vĩ đại một bên, và đời thường, thậm chí tầm thường, một bên.

Thôi, “còn một chút gì để nhớ để quên!” Có thương thì có ghét!

Xin vĩnh biệt ông!

Huy Phương


Tại sao Phạm Duy “dinh tê” về Hà Nội ?

Sau khi Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân bế mạc, mọi người ai nấy đã trở về những chiến khu của mình rồi thì “giây phút của sự thật” đã tới với tôi. Trong một buổi trưa có nắng vàng nhẩy múa trên lá cây, thả bước trên một con dốc nhỏ nằm trong khu rừng Yên Giã, anh Nguyễn Xuân Khoát bá vai tôi, hai người lặng lẽ đi… Một hồi lâu, anh Khoát nói, giọng nói thầm thì: 
— Đoàn thể cử tao nói cho mày biết. Là mày đã được kết nạp. Mày sẽ được cử đi Moscou. Mày sẽ được ông Cụ gắn cho một huân chương chiến sĩ. Nhưng có điều kiện. Mày phải bỏ cái tính “chơi” của mày đi. Mày phải khai tử bài hát Bên Cầu Biên Giới. Và nếu xuất ngoại thì Thái Hằng phải ở lại. Một mình mày đi thôi. Về suy nghĩ. Mấy hôm nữa, trả lời tao. 
Tôi bàng hoàng. Như bị anh bốc-xơ — cỡ võ sĩ Mỹ đen Tyson hiện nay chẳng hạn — vừa “ục” vào đầu mình một cú đấm. Anh Khoát lảo đảo đi về phía trước, lảo đảo là vì anh đi đôi giầy bốt to quá, nặng quá. Tôi cũng lảo đảo như người vừa bị “nốc ao”, quay về ngôi nhà nứa của mình, nằm chắp tay lên bụng, suy nghĩ… 
… Khi bước chân lên miền Việt Bắc này, tôi không bao giờ chờ đợi có được những thứ gọi là “đại ân huệ” như thế này cả. Nhất là những ân huệ có điều kiện. Cứ nghĩ rằng mình lên đây để làm việc như một thường dân yêu nước và được tự do sáng tác hay được tự do đi công tác, giống như khi mình còn ở Liên Khu IV. Chỉ cần mình có thêm hai, ba người bạn mới để mình yêu mến như đã yêu mến Nguyễn Sơn, Đặng Thái Mai, Nguyễn Đức Quỳnh… Chỉ cần có thế thôi. Ai ngờ bây giờ mình lại được đãi ngộ đến thế. Ai ngờ bây giờ mình lại được đẩy vào một guồng máy chặt chẽ để sống cuộc đời của một anh cán bộ chính trị gương mẫu. Trong khi bản tính mình là một con người rất phóng túng. Trong suốt đời tôi, kể từ khi còn bé cho tới nay, tôi sợ nhất là bị đẩy vào kỷ luật. Vào làm đảng viên của một cái Đảng mà kỷ luật chắc chắn phải là thứ kỷ luật sắt, cứ yên chí đi, chỉ cần sau “ba bẩy hai mươi mốt ngày” là tôi sẽ bị đá đít tống ra khỏi đảng liền. 
Hơn nữa, tôi ý thức hơn ai hết về giai cấp của mình. Nằm trong ngôi nhà nứa này, tôi tự nói thầm cho tôi nghe, bởi vì khi phải trả lời anh Khoát tôi sẽ không nói văn vẻ như thế này: 
— Anh Khoát ơi. Tôi là tiểu tư sản mà. Làm sao tôi có thể tiến thẳng “lên” giai cấp vô sản được? Dù tôi cũng xuất thân là một công nhân, đi khắp mọi nơi ở trong nước để làm các nghề lao động chân tay trước khi sống bằng nghề lao động trí óc (!). Nhưng anh ơi, đó là sau khi tôi đã bị ông anh bắt phải vào học nghề trong trường Kỹ Nghệ Thực Hành, rồi tôi bất mãn, phạm nhiều kỷ luật như đánh nhau, phá phách máy móc ở trường… cho nên tôi bị đuổi ra khỏi trường. Trong bản khai lý lịch cách đây không lâu, tôi đâu có khai tôi là công nhân? Tôi có thể là người có nhiều cảm tình với Cách Mạng nhưng không bao giờ tôi là người học thuộc lòng những bài học, những lý thuyết, những tôn chỉ của Cách mạng cả. Đã có lần tôi trả lời một thằng Cách Mạng nửa mùa, khi nó phê bình tôi là tôi là duy tâm, duy tiếc gì đó, nó nói như một con vẹt vậy. Tôi bèn chỉ tay vào mặt nó: ” Ê mày, nghe đây. Tao không phải là “duy tâm” và cũng chẳng bao giờ là “duy vật” cả. Tao là… “duy cẩn”, Phạm Duy Cẩn. Hiểu không? “ 
Tại Thanh Hoá, tôi đã có lần khó chịu vì bị phê bình là tiêu cực qua những bài mà tôi vẫn cho là theo đúng chủ trương hiện thực của chính quyền đề ra như Bao Giờ Anh Lấy Được Đồn Tây, Bà Mẹ Gio Linh. Nhưng khi tôi thấy — qua anh Khoát — Trung Ương bắt tôi phải khai tử bài Bên Cầu Biên Giới, tôi nổi giận chứ không chỉ khó chịu như trước nữa. Tôi thấy họ đặt vấn đề quá nặng. Một bài hát, theo tôi, nếu nó có may mắn được hát lên trong một thời kỳ nào đó thì đời của nó cũng chẳng khác chi một đời hoa, sớm nở tối tàn, có gì đâu mà quan trọng hoá đến độ phải treo cổ nó lên hả? Tôi thấy Cách Mạng bắt đầu lẩm cẩm khi kết án bài Vọng Cổ trong cái Đại Hội mà tôi vừa tham dự. Bây giờ lại tới chuyện lãnh đạo bắt tôi phải tự tay giết chết một bản nhạc tình tôi vẫn thường coi là tầm thường và còn vớ vẩn nữa là khác. Sự ngu đần trong việc quan trọng hoá một bản nhạc như thế này cũng vẫn còn thấy hiện ra mấy chục năm sau, khi ở Miền Nam có những người lên án bài thơ của một anh lính trong lực lượng Nhẩy Dù do tôi phổ nhạc — bài thơ nhan đề Trả Lời Một Câu Hỏi mà tôi đổi lại là Kỷ Vật Cho Em — cho rằng sự phổ biến của bài hát này đã làm cho quân nhân nản lòng, do đó miền Nam Quốc Gia thua miền Bắc Cộng Sản. Nói như vậy là chấp nhận rằng một bài hát có khả năng để đánh giặc giỏi hơn một đội quân có một triệu lính, với sự giúp đỡ của một nước Đồng Minh có bom nguyên tử à? 
Bây giờ tới việc thứ ba là bỏ Thái Hằng ở lại Việt Bắc để đi Moscou. Thái Hằng đã có mang được gần sáu tháng rồi. Đã có lần cả hai vợ chồng tôi đều bị sốt rét, cùng nằm rên khừ khừ trên cái giường nứa ở khu Yên Giã này. Nhưng cũng còn có người ốm này săn sóc cho người ốm kia. (Thái Hằng vừa nhắc lại chuyện tôi… ỉa đùn ở Yên Giã khi bệnh sốt rét đưa tới bệnh kiết lỵ). Cái bệnh sốt rét quái đản mãi hơn mười năm sau mới được đẩy lui khi một Bác Sĩ ở Saigon tìm ra cách chữa rất hiệu nghiệm là tiêm quinine vào mạch máu của chúng tôi. Ngay trước ngày Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân, khi tôi phải đi vắng hai tuần — tôi lên hát ở Đài Phát Thanh bí mật, có gặp lại Thương Huyền tại đó — Thái Hằng nằm một mình ở trong khu rừng già này, nửa đêm có cọp về, vợ tôi vốn là người bị bệnh yếu dây thần kinh từ trước, nay lại sợ cọp tới độ muốn phát điên lên, sáng hôm sau phải tới xin ở tạm nhà chị Nguyễn Xuân Khoát trong khi đợi tôi đi công tác trở về. 
Nếu tôi đi ngoại quốc mà Thái Hằng ở lại, vào ngày sinh nở, ai là người sẽ săn sóc người đẻ hộ tôi? Tôi cũng có thể tin rằng Đoàn Thể sẽ làm chuyện đó một cách rất chu đáo, nhưng tôi đã thấy trước mắt chuyện bà Đào Duy Kỳ, vợ của một đảng viên cỡ lớn, ở ngay tại khu Trung Ương này, khi sinh ra đứa con thì phải nuôi một con dê ở trong vườn để có sữa cho con bú. Hình ảnh của người mẹ nghèo thiếu ăn và của đứa con đói sữa trong bài thơ Tâm Sự Đêm Giao Thừa của Hoàng Cầm mà tôi thuộc lòng như cháo, cũng hiện ra trong đầu tôi lúc này… 
… Trong thời gian chờ đợi tới ngày tôi phải trả lời anh Khoát về một vấn đề tối ư quan trọng có khả năng quyết định cả một đời người, tôi được gọi đi gặp ông Hồ. Đi khoảng gần hai tiếng đồng hồ thì tới chỗ ông ở. Qua khỏi một con suối được đặt tên là Lê Nin thì thấy hiện ra một ngôi nhà sàn b_ăng tre rất đẹp, có ông Chủ Tịch họ Hồ đang ngồi đánh máy. Nhìn thấy U³ông, tôi vẫn thấy cảm động như lúc gặp ông lần đầu. Nhưng vì bây giờ được nhìn ông gần hơn lần trước, tôi thấy cặp mắt của ông thật là sáng, nhưng nó không toát ra một sự trìu mến. Cũng có thể một người làm chính trị suốt đời như ông thì lúc nào cũng cần phải cần phải quyết liệt, phải tàn nhẫn, cho nên ông có một cái nhìn rất dữ. 
Tới gặp ông lần này, tôi rất thông minh để thấy ngay rằng đối với ông, lúc đó, tôi chẳng là cái gì cả. Không chừng ông cũng chẳng biết tới tên tôi hay biết tới công việc của tôi là đàng khác. Trong cái bắt tay hay trong câu chuyện, tôi chỉ cảm thấy có một chút thân mật của một người muốn làm cha thiên hạ, ban xuống cho một đứa con dân. Chỉ có thế thôi. Một nhà lãnh đạo như ông Hồ, đang có muôn ngàn chuyện phải làm, đâu có thì giờ để mà đãi ngộ một văn nghệ sĩ? Chẳng qua là vì những vị phụ trách về văn nghệ nghĩ rằng gặp ông Hồ là một ân huệ lớn đối với một công dân và nghệ sĩ như tôi. Trong mọi tính toán như: cho vào Đảng, cho đi Moscou, đề nghị tặng huân chương, còn có thêm một tính toán nữa là cho tôi gặp một người mà ai cũng mong được gặp. 
Họ không biết là tôi đã từng được mời tới gặp ông Bảo Đại khi ông vua này đi săn và tới Phan Rang hồi năm 1943. Tôi đang đi hát với gánh Đức Huy ở đó, ông Tỉnh Trưởng là Nguyễn Duy Quang cho xe hơi tới đón tôi đưa vào Dinh Tỉnh Trưởng để đàn hát cho ông vua nghe. Lúc đó tôi mới 22 tuổi. Chỉ có tôi và Bảo Đại ngồi ở trong phòng khách. Ông chăm chú ngồi nghe tôi hát, hỏi thăm gia đình tôi. Gặp ông vua mà cũng chẳng thấy có gì là ghê gớm cả. Ông vua nghe mình hát thì cũng như… ông trọc phú hay ông phu xe — những quý vị khán giả bỏ tiền mua vé vào rạp — nghe mình hát mà thôi. Nhưng phải công nhận rằng ông Bảo Đại là một người rất nhã nhặn, rất thích âm nhạc. Tiếc rằng tôi không nhìn được rõ đôi mắt của ông vì ông luôn luôn đeo kính đen. 
Sau này cũng thế, vì anh tôi là Phạm Duy Khiêm đang làm Đại Sứ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tôi cũng được mời vào Dinh Độc Lập để gập hai anh em lãnh tụ họ Ngô. Cả hai ông đều có những cái nhìn rất dữ và cao ngạo. Đối với hai ông, tôi cũng chỉ có đúng một sự lễ phép vừa phải như khi tôi gặp những lãnh tụ khác. Một thứ lễ phép theo kiểu “kính như viễn chi” vốn là một cách rất hay để thoái thác không nhận một ân huệ hay một món nợ vật chất hay tinh thần nào ở nơi những người có quyền hành này. Sự tương kính đã có giữa hai bên rồi thì không bao giờ tôi dám phê phán các nhà lãnh tụ đó cả, từ ông Bảo Đại, qua ông Hồ Chí Minh tới hai vị lãnh đạo họ Ngô. Đó là công việc của lịch sử. 
Nhưng có một điều mà bây giờ tôi mới nhìn thấy khi tôi gặp ông Hồ Chí Minh ở Việt Bắc là: dù đây là một thứ chính quyền Cách Mạng nhưng ở cái nơi chiến khu âm u bí hiểm này cũng có một thứ triều đình rồi — chẳng trách Nguyễn Tuân gọi đây là đất thánh. Triều đình nào cũng phải có kẻ nịnh. Kẻ nịnh bao giờ cũng đông hơn người trung. Lúc tôi tới nơi ông Hồ ở là lúc tôi thấy Tống Ngọc Hạp đem một bầy thiếu nhi tới và tôi chứng kiến một sự “tranh nhau đi gặp Bác Hồ”, một sự cãi nhau om xòm giữa người này người nọ trong sự chọn lựa ai được vào gặp, ai không được vào gặp. Tôi trở về Yên Giã, lòng rất thản nhiên vì bây giờ thì tôi không còn gì để thắc mắc nữa. 
Tôi tới gặp anh Khoát ngay và trả lời dứt khoát là tôi xin trở về Thanh Hoá. Và xin về ngay để cho kịp ngày vợ đẻ, sẽ có bà mẹ vợ săn sóc cho mẹ tròn con vuông. Tôi rất cám ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ một thứ ân huệ nào cả. Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lãnh đạo văn nghệ của cả nước thì Tố Hữu tặng cho vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay vì đó là tiền lương và vãng phí. 
Ngày mai lên đường về suôi thì tối hôm đó bỗng nhiên tôi gặp vợ chồng tướng Nguyễn Sơn ở nơi an toàn khu này. Ông mời vợ chồng tôi tới ăn cơm. Trong bữa cơm rất ngon tại một ngôi nhà sàn ở giữa vùng Việt Bắc, dưới ánh đèn dầu leo lắt, ngoài những chuyện xã giao thông thường, ông không nói gì tới chuyện ông đã bị Đảng gửi trả ông về Trung Cộng. Tôi cũng không hé miệng cho ông biết tình trạng và thái độ của tôi trước những ân huệ mà cấp trên đã dành cho tôi. Nhưng khi biết tôi sẽ trở về Khu IV vì lý do Thái Hằng đang có mang thì ông gật gù, ra chiều đồng ý. 
Khi tôi về tới Thanh Hoá, tôi mới biết rằng tướng Nguyễn Sơn đã bị thay thế bởi Hoàng Minh Thảo, có Trần Văn Quang làm ủy viên chính trị. Sau này, tôi mới biết rõ nguyên do tại sao ông Sơn lại bỏ kháng chiến để ra đi. Theo người bạn đàn anh của tôi là Hoàng Văn Chí — anh em cột chèo với Nguyễn Sơn — lúc đó đang làm việc tại Khu IV, thì tướng Nguyễn Sơn phản đối việc ông Hồ yêu cầu Trung Cộng viện trợ, cho rằng hễ nhận viện trợ của ngoại bang thì sẽ mất hết chủ quyền. Ông Sơn viện lẽ rằng trong thời kỳ chống Nhật, Mao Trạch Đông không thèm nhờ Nga Sô viện trợ, để mặc Nga Sô tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch. Theo ông Sơn thì Việt Nam phải tự lực kháng chiến, chiếm lấy vũ khí của Pháp để mà đánh Pháp. Cuộc chiến đấu gian lao hơn nhưng nước mình sẽ không phụ thuộc ngoại bang. Cũng vẫn theo Hoàng Văn Chí, Nguyễn Sơn to tiếng với ông Hồ về việc này và bỏ ra đi ngay sau buổi thảo luận gay go đó, rất có thể ngay trong cái ngày mà tôi được ông mời tới nhà để ăn cơm. Tôi cũng không ngờ rằng đó là bữa cơm từ biệt mà tướng Nguyễn Sơn dành cho một nghệ sĩ trẻ tuổi mà ông hết lòng nâng đỡ không những chỉ trong công tác mà còn trong cả đời tư, khi ông là người se duyên và chủ hôn cho vợ chồng chúng tôi. Không còn Nguyễn Sơn ở Khu IV nữa, rồi đây tôi sẽ thấy mình bơ vơ vô kể. 
Trên đường về, vợ chồng ghé qua một địa điểm ở trong tỉnh Thái Nguyên để gặp anh tôi là Phạm Duy Nhượng hiện đang là giáo viên của trường dạy các cán bộ cao cấp về văn hoá. Việt Minh có cái hay là trong kháng chiến, những người không có trình độ văn hoá cao hoặc có khi chỉ mới có bằng Tiểu Học mà thôi, sau khi đã chiến đấu ở ngoài mặt trận trong một thời gian thì dù có là Sư Đoàn Trưởng,Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng hay Đại Đội Trưởng gì đi nữa thì cũng — a lê — mời các ông quan to súng dài này buông súng ra, bỏ chức vụ đi, lục tục về một ngôi trường được dựng lên ở một nơi giống như “u tì quốc” để học lại từ đầu. Nhà giáo Phạm Duy Nhượng là thầy dạy học văn hoá cho vô số các Tướng Lãnh Cộng Sản về hưu hiện nay ở ngoài Bắc. Sống ở “ù tì quU³ốc” này vài ngày, tôi được nghe một câu chuyện có dính líu tới giới cầm bút, cầm đàn và cầm… dọc tẩu của chúng tôi: 
“… Sau khi tan Đại Hội, các văn nghệ sĩ như Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Tuân, Canh Thân, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Nguyễn Văn Hiếu về tới thị xã đổ nát là Thái Nguyên thì gập Đinh Văn Tỉnh, người có biệt danh là Tỉnh “Chố” vì anh ta có đôi mắt cá vàng, lúc nào cũng như chố mắt ra để nhìn thiên hạ. Tỉnh “Chố” mách nước cho mọi người biết: 
— Ơ± một địa điểm gọi là Lăng Tạ, chỗ giáp giới Thái Nguyên-Bắc Giang ấy, các cậu có thể tới ăn hút thả giàn được đó. Tại đây có Lê Sỹ Cửu là đệ tử ruột của Cục Trưởng Cục Quân Nhu Trần Dụ Châu. Anh ta sẽ tổ chức một đám cưới cho người em. Họ cũng đang cần “văn nghệ giúp vui”… 
Nghe thấy Tỉnh “Chố” mách nước như vậy, các văn nghệ sĩ nhà ta vội vàng kéo nhau tới Lăng Tạ. Đám cưới cực kỳ sang trọng được tổ chức tại ngôi nhà của Lê Sỹ Cửu, nằm trên một ngọn đồi. Ơ± hai bên đường, từ dưới chân đồi lên tới cổng nhà, để soi sáng cho đường đi là hàng ngàn ngọn nến bạch lạp. Cục Quân Nhu là cơ quan có nhân viên và phương tiện để ra vào Hà Nội hằng ngày, mua những đồ tiếp liệu như vải vóc thuốc men, các hàng thuộc loại “xa xỉ phẩm”… trong đó có thuốc lá thơm cho ông Hồ. Lê Sỹ Cửu luôn luôn cưA°ơi một chiếc xe đạp Sterling mà ghi đông là loại thép “dura” có pha chất “aluminium”. Xe đạp thời kháng chiến mà có được một cái đèn hiệu RADIUS để đi ban đêm là đã sang trọng lắm rồi. Xe đạp của Lê Sỹ Cửu có tới hai cái đèn, đèn nào cũng to như đèn pha xe hơi cơ. Hằng ngày Lê Sỹ Cửu là một người tiêu tiền như rác. Số tiền đổ vào đám cưới này chắc chắn là phải kinh khủng lắm. Người ta kể lại là về phần ăn thì sau khi nhà bếp làm thịt, những lông gà, lông vịt đổ xuống sông trôi lềnh bềnh đến mấy ngày mà vẫn chưa hết. Và cũng không thiếu một thứ rượu ngon nào trong bữa tiệc cưới này. Thuốc lá thơm như Philip Morris, Cotab, Camel, 3 con 5… đem ra mời khách hút, không phải từng điếu mà là từng bao. Ăn uống no say xong là có luôn dăm ba cái bàn đèn thuốc phiện để đãi khách. Lẽ tất nhiên Trần Dụ Châu là thượng khách đám cưới. 
Thực ra, cái đám cưới cực kỳ hoang phí được tổ chức trên xương máu của nhân dân này cũng chẳng có ai biết đến, ngoài những người tới dự đám cưới. Cũng chẳng có ai bận tâm đi báo cáo ai cả. Vả lại, Cục Trưởng Cục Quân Nhu đã là nhân viên cấp cao nhất ở đây rồi. Hơn nữa, Trần Dụ Châu là người rất hào hiệp đối với bạn bè và các đàn em. Có người bạn nào ở xa tới thăm anh là anh tặng luôn cho người đó một bộ đồ kaki Mỹ. Cho nên nếu anh có để cho đàn em của anh làm chuyện hoang phí như thế này thì cũng không có ai nỡ trách móc anh làm gì. Chẳng may trong đám cưới này lại có Đoàn Phú Tứ.

Trong bữa ăn, có lẽ đã quá say — hay giả vờ say không chừng — Đoàn Phú Tứ nhìn thẳng vào mặt Trần Dụ Châu, lên tiếng phê bình sự hoang phí này. Lê Sỹ Cửu vội vàng chạy tới, nắm cổ Đoàn Phú Tứ kéo đi. Và để lấy lòng “xếp” của mình, anh ta giơ tay tát Đoàn Phú Tứ. Thế là chuyện này bùng nổ. Đoàn Phú Tứ lập tức báo cáo lên Trung Ương, đưa ra những tội của Trần Dụ Châu như: bao che cho đàn em phung phí công quỹ, tổ chức đám cưới vô cùng phí phạm trong khi chính phủ đang bắt cả nước phải hi sinh, có thái độ hung hãn với văn nghệ sĩ khi bị phê bình thẳng thắn. Câu chuyện lan tràn đi khắp mọi nơi. Ai cũng xì xào. Nếu người tố cáo không phải là Đoàn Phú Tứ thì chuyện này cũng có thể được lấp liếm đi, nhưng lúc đó người ta rất cần tới văn nghệ sĩ để động viên quần chúng cho nên Trung Ương đã không thể làm ngơ được. Kết quả, Cục Trưởng Cục Quân Nhu Trần Dụ Châu bị đưa ra xử án trước công chúng vào ngày mùng 5 tháng 9 năm 1950, có Chu Văn Tấn ngồi ghế Chánh A³n và có Trần Tử Bình đại diện của Chủ Tịch họ Hồ tới dự để cho phiên toà thêm phần long trọng. Trần Dụ Châu bị kết án tử hình và bị đem ra xử bắn tại sân vận động Thái Nguyên…” 

Tôi biết sơ sơ là cô bạn ca sĩ Thương Huyền dễ thương và hát hay của tôi trong những ngày xa xưa, khi ra với kháng chiến thì cô trở thành người bạn tình hay người vợ chưa cưới của Cục Trưởng Cục Quân Nhu Trần Dụ Châu. Tôi cũng vừa mới gặp nàng ở Đài Phát Thanh bí mật một tháng trước đây. Lúc đó nàng đang ngồi trong phòng vi âm, tay cầm cái quạt nan để đuổi một lũ ruồi đang bu vào một vài nốt ghẻ ở nơi đôi chân thon đẹp của nàng, những nốt ghẻ mà ai đã đi kháng chiến thì cũng đều được thiên nhiên ô nhiễm âu yếm tặng cho. Rất niềm nở, Thương Huyền hỏi thăm tôi về Thái Hằng. Còn về phần tôi, vì mắc bệnh “tế nhị” cho nên tôi không dám thăm hỏi gì về đời tư của nàng cả. Nay biết chuyện Cục Trưởng Trần Dụ Châu gặp nạn, tôi nghĩ tới Thương Huyền rất nhiều. Từ giã trường dạy văn hoá và anh Nhượng, chúng tôi ra đi. Trong hành trình trở về Khu IV, trên một quãng đường nào đó, tôi chúc thầm cho người bạn cũ có một nụ cười rất phúc hậu qua khỏi được tất cả những khó khăn của cuộc đời. Rồi từ đó, tôi quên Thương Huyền.

Một hôm Phạm Đình Viêm đang ngồi ở trong Quán Thăng Long thì có một cán bộ đi xe đạp từ đàng xa tới, đậu xe lại, bước vào quán và nói: 
– Tôi có gặp một ông già cùng đi với một cô con gái ở cách đây bẩy tám cây số gì đó. Họ biết tôi sẽ qua Chợ Neo nên nhờ tôi nói dùm với ông bà chủ quán Thăng Long là họ đang trên con đường về. 
Thế là Phạm Đình Viêm bôn bả cưỡi xe đạp đi đón chúng tôi. Nhưng không gặp. Chúng tôi về tới Quán Thăng Long thì chỉ thấy có một mình bà Thăng Long đang ngẩn ngơ đứng đó. Hai mẹ con ôm nhau khóc oà. Tôi ngạc nhiên vì không thấy ông Thăng Long đâu cả. Trong sáu tháng vừa qua, ở nhà ra đi lên sống ở Việt Bắc rồi là chúng tôi không có một tí liên lạc nào với gia đình ở Chợ Neo cả. Xin được thưa với tất cả các dân tộc ở trên thế giới rằng: trong những năm kháng chiến, 90 phần trăm người dân Việt thoát ly gia đình để đi làm nhiệm vụ công dân. Dù trong quân đội và các cơ quan dân chính có những tổ chức bưu điện được gọi là “hòm thư” (sau này mới có cái tên “khu bưu chính”, viết tắt là KBC) nhưng thư đi thư lại ở trong nước thật là ít ỏi. Tôi nhớ rất rõ ràng là trong bẩy năm kháng chiến, tôi không hề gửi đi hay nhận được một lá thư nào cả. Và tôi không phải là người độc nhất ở trong hoàn cảnh đó. Dân tộc này phải can đảm đến độ nào mới có thể chấp nhận một sự “biệt vô âm tín” lạ lùng giữa những người thân trong gia đình như vậy. Ông Thăng Long vào Hà Nội từ mấy tháng nay rồi. Chúng tôi đâu có biết? Gia đình này đã khánh kiệt. Bố vợ tôi phải vào thành phố để vay mượn tiền nơi bạn bè, đem ra vùng kháng chiến tiếp tế cho gia đình. 
Phạm Đình Viêm phóng xe đi tìm vợ chồng tôi không thấy, quay xe trở về quán. Chúng tôi nhìn nhau cười như nắc nẻ. Anh cán bộ nói không sai: Tôi mới có 30 tuổi mà trông đúng là một ông già rồi. Sau khi cất ba lô, rửa mặt, thay quần áo, Thái Hằng chui ngay vào giường nằm. Tôi ra ngồi uống một ly cà phê, ăn một tô phở và hàn huyên, tâm sự cùng mẹ vợ và anh vợ… 
“… Con đường về vất vả hơn con đường đi nhiều. Vượt khỏi được con dốc Tam Đảo là gặp những cơn mưa tầm tã. Hai vợ chồng ôm nhau đi trên những con đường bùn ngập tới cổ chân. Có những lúc Thái Hằng mệt quá, ngồi bệt xuống đường khóc. Tôi đi trước vài bước, thấy thế tôi quay gót lại, nâng vợ dậy, dìu đi và vừa đi vừa kể cho nghe những chuyện tiếu lâm của bố tôi là Thọ An, Phạm Duy Tốn. Chuyện rất tục và cái tục làm cho người nghe quên khổ, quên mệt trên đường dài. Tuy vậy, Thái Hằng vẫn còn lo lắng vì được ai đó nói cho biết rằng: có nhiều người mang thai đi công tác, vì đeo ba lô quá nặng và đi bộ quá nhiều cho nên đã đẻ non ở dọc đường. Nếu chuyện đó xẩy ra cho vợ tôi thì nguy to. Thấy vợ lo ngại nhiều quá, tôi lại phải luôn luôn nâng tinh thần vợ lên. Xách đỡ ba lô, vẽ ra niềm hạnh phúc khi đứa bé ra đời và… tiếp tục kể cho vợ nghe thêm những chuyện tiếu lâm khác. Có một hôm chúng tôi tới một nơi không có nhà trọ, tối đến phải ra nằm ngủ trên bờ suối, nửa đêm có mưa đổ xuống như trút nước, nước suối dâng cao, tôi phải đặt vợ với cái bụng chửa nằm lên trên ngực tôi để cho người đang có thai không bị dầm mình trong nước lạnh. Lại có một hôm tình cờ gặp một đoàn tù binh Pháp đang được dẫn đi ở giữa rừng, nằm ngủ cách đám tù binh Pháp không xa, suốt đêm phải nghe tiếng ho xù xụ của những tù binh — có lẽ đang mắc phải bệnh lao — chúng tôi mất ngủ luôn… “ 
Đó là câu chuyện “phiêu lưu” rất vắn tắt mà tôi kể cho mẹ vợ và anh vợ nghe trong ngày đầu tiên về tới Chợ Neo, với kết luận là chỉ có phép lạ mới cứu cho vợ tôi không bị xẩy thai mà thôi. Tôi nấn ná ở nhà vài hôm rồi mới đi gặp Đặng Thái Mai, Nguyễn Đức Quỳnh. Lúc này tôi không còn là cán bộ văn nghệ của Trung Ương hay của Trung Đoàn hay Sư Đoàn nào cả mà chỉ là một “thường dân hạng nhì” đi thăm các người bạn bực đàn anh. Tôi tránh né không nói gì tới chuyện đã qua ở trên Việt Bắc. Rồi tôi về nhà, trong một tuần trăng, không làm gì cả, ngồi chờ vợ đẻ. Thái Hằng có mang đã tới tháng thứ tám. Được mẹ săn sóc kỹ lưỡng, có ngày được ăn tới ba bát phở (của thùng phở ế khách), vợ tôi đã béo tốt ra, cái bụng đã to phềnh lên. Chúng tôi lại được sống những ngày rất êm ả dưới mái nhà tranh bên dòng sông máng. 
Ông Thăng Long từ Hà Nội trở ra Chợ Neo. Mừng mừng tủi tủi khi gặp lại bố vợ nhưng tôi buồn vô hạn khi ông Thăng Long cho biết mẹ tôi vừa qua đời trên một tháng nay tại Hà Nội và ông có đi dự đám tang. Mẹ tôi vĩnh biệt cuộc đời vào lúc chúng tôi đang sửa soạn từ giã khu rừng Yên Giã để về suôi. Bây giờ thì tôi nhớ lại rồi. Có một đêm, tôi đang đứng chơi ở trước ngôi nhà nứa trong khu rừng vắng thì nghe tiếng cú kêu. Bấm đốt ngón tay thì thấy đó là ngày mẹ tôi giã từ cuộc đời. Cái chết của mẹ tôi có thể làm cho tôi đau khổ rất lâu nếu chúng tôi không có một sự sống là đứa con đang sắp sửa ra đời. Vừa mất mẹ thì có con ngay. Nỗi buồn đang nằm đó được niềm vui bước tới che đi. Đời tôi quả là may mắn vì gặp được những sự bù đắp không ngừng. Ngày tôi lấy vợ, cách đây hơn một năm, tôi chỉ mong sao mẹ tôi biết được tin mừng nhưng tôi không có cách nào để đưa tin cho mẹ được. 
Nay ông bố vợ về Hà Nội và gặp mẹ tôi trước khi mẹ tôi mất. Mẹ tôi đã biết tin tôi lấy vợ. Mẹ tôi nói: “Nó lấy được con gái ông bà là tốt lắm đấy.” Trong kháng chiến có biết bao nhiêu gia đình bặt tin nhau, cha mẹ chết đi, vài ba năm sau con cháu mới biết. Con cái thành vợ thành chồng, có cháu đầu lòng mà có khi cha mẹ không biết. Tôi tự an ủi là mình có phúc. Bố vợ còn đem ra cho tôi thêm một niềm an ủi khác nữa: một số bài hát kháng chiến của tôi được ấn hành ở trong thành. Một nhà xuất bản trao tiền tác giả cho mẹ tôi. Tôi coi đó là một sự báo hiếu của tôi, rất nhỏ nhoi nhưng rất cần thiết. 
Mừng hơn nữa là bố vợ cũng mang ra cho tôi một số tiền tác giả của một nhà xuất bản khác. Tôi có đủ tiền để chi phí cho việc hộ sinh và việc nuôi đứa con đầu lòng nay mai, khỏi cần phải vay mượn hay nhờ vả chính quyền. Vả tới mãi bây giờ mới có thể sắm một cái nhẫn cưới cho vợ. 
Mùa Đông năm 1950, vợ tôi đẻ. Nhà hộ sinh ở ngay bên kia bờ sông máng. Người đỡ đẻ là bà đỡ Ninh, từ Hà Nội tản cư ra đây, mang theo đầy đủ đồ nghề. Từ Việt Bắc, vợ tôi mang được cái bụng chửa về tới Chợ Neo để đẻ, đó là phúc bẩy mươi đời cho gia đình tôi vậy. Vì sao? Vì đẻ con so cho nên đẻ khó, phải có hai người dùng “forcep” mới gắp được đứa bé ra. Nếu đẻ ở dọc đường thì làm gì có bà đỡ Ninh và dụng cụ đỡ đẻ như bây giờ? Đứa bé không ra khỏi bụng mẹ được sẽ bị nghẹt thở, chết cả con lẫn mẹ. Và chắc gì tôi có thể sống nổi nếu chuyện đó xẩy ra? Đứa bé ra đời nặng 3 ký, được đặt tên là Quảng. Trong cái tên của vợ tôi, Phạm Thị Quang Thái, có chữ đệm là “Quang”. Ông bố vợ đề nghị nên lấy tên đệm của mẹ mà đặt tên cho con. Nhưng một trong các vị tổ tiên của tôi đã mang cái tên là Quang rồi. Cần phải “kiêng tên”, chúng tôi bèn cho thêm dấu hỏi vào tên đứa bé. Nhưng khi di cư vào miền Nam, phải làm lại giấy khai sinh cho đứa bé thì không hiểu tại sao cái dấu hỏi đó lại bị mất đi? 
Tôi và Thái Hằng không còn là nhân viên của đoàn văn nghệ quân đội nữa. Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương, Băng Thanh (tức Thái Thanh) tuy vẫn còn là nghệ sĩ ở trong quân đội nhưng không phải đi công tác luôn luôn như ngày trước. Họ ở nhà nhiều hơn là ở trong cơ quan. Cũng như bất cứ một người cha nào, tôi vui thú với đứa con trai đầu lòng, ngày đêm ôm ấp nó. Cả gia đình cũng đều vui vì đây là lần đầu tiên có trẻ thơ ở trong nhà. Mọi người tranh nhau bế thằng nhỏ. Đứa bé vừa ra chào đời là nhận được đầy đủ mọi thứ tình yêu đến từ ông bà, cha mẹ, bác, cậu và gì… Trong khi đất nước vẫn còn trong thời kỳ chiến tranh, biết bao nhiêu gia đình bị lâm vào cảnh ly tán, được sống như chúng tôi vào những ngày tháng này cũng là điều may mắn. Nghĩ như vậy cũng là để luôn luôn tự an ủi trong thời gian có sự dằn vặt trong lòng. 
Trong một năm vừa qua, vì quá bận bịu trong hai chuyến đi đi về về giữa Việt Bắc và Thanh Hoá, tôi không có một tí ti sáng tác nào cả. Vả lại, tôi cũng không gặp một đề tài hay ho nào, chỉ gặp toàn những chuyện chính trị thuần túy mà tôi không thích. 
Tình hình chiến tranh sôi sục hơn trước. Pháp mở nhiều chiến dịch ở vùng trung du. Nhưng dù có gửi danh tướng De Tassigny qua Đông Dương để đưa ra những chiến lược, chiến thuật mới thì Pháp cũng không thể chuyển bại thành thắng được. 
Bây giờ đang có một phong trào lớn là “dân công”, một chế độ lao công bắt buộc mà toàn thể dân chúng phải theo. Những chiến dịch lớn đòi hỏi sự tiếp tế thường xuyên về vũ khí cũng như về lương thực. Một mặt, tất cả đường xá ở trong nước đã bị phá hủy, mặt khác Việt Minh không có những đoàn xe vận tải, bây giờ phải dùng tới nhân lực. Ngoài những người làm việc ở trong các cơ quan, chính phủ ra lệnh xung công tất cả nhân dân để làm công việc chuyên chở lương thực và vũ khí này. Ai cũng phải làm nhiệm vụ dân công hết, chỉ trừ người già và em bé. Lúc đó vợ chồng tôi là “phó thường dân”, không còn làm việc cho bất cứ một cơ quan công quyền nào cả, trên nguyên tắc chúng tôi phải đi dân công. Nhưng chúng tôi xin được đóng tiền để cho ban dân công địa phương thuê người khác đi thay thế. Đó là chuyện hợp pháp chứ không phải tham nhũng, hối lộ gì đâu. Đi dân công như vậy, mỗi người dân phải chuyên chở 15 ký gạo, mỗi đêm đi từ 15 tới 30 cây số. Hoặc là gánh gồng, hoặc là thồ bằng xe đạp. Có những vùng, các đoàn dân công đi ban ngày. Có những vùng, để tránh nạn máy bay tới bắn phá, ban ngày nằm nghỉ, tối đến là đoàn dân công ríu rít lên đường. Hàng vạn dân công ra đi, cứ cách 5 hay 10 người lại có một người cầm đèn để soi đường, ở xa trông như một con rồng vĩ đại đang uốn khúc. 
Ngồi bế con ở trong Quán Thăng Long, tôi thấy hàng ngàn, hàng vạn dân công kĩu kịt gánh thóc đi qua. Dù lúc này tôi không còn là một cán bộ văn nghệ nữa và dù cả đại gia đình này đang trong tình trạng thiếu hụt gạo ăn, nhưng trước cảnh hi sinh vô cùng lớn lao của người dân quê Việt Nam, tôi cũng có đủ cảm hứng để hát lên cảnh say thóc, giã gạo, gánh lúa nuôi dân… qua một bài “dân ca mới” có nhịp điệu rất vui: 
Mênh mông mênh mông sóng lúa mênh mông 
Lúc trời mà rạng đông ư rạng đông. 
Bóng người thấp thoáng cuối đường thanh vắng 
Bước đều mà quang gánh ư nặng vai… 
. . . . . . . . . . . . 
Đêm qua trăng mơ sáng khắp thôn quê 
Hỡi chàng mà chàng ơi, chàng ơi. 
Có nàng gánh lúa quyến tròn thương nhớ 
Thương chàng mà dãi nắng dầm mưa. 
Đêm qua trăng mơ thức suốt canh khuya 
Hỡi chàng mà chàng ơi, chàng ơi. 
Sớm ngày mai tới, thóc vàng cơm mới 
Đi nuôi dân gánh một thành hai. 
. . . . . . . . . . 
Gánh gánh gánh, gánh thóc về 
Gánh gánh gánh, gánh thóc về 
Gánh thóc về. Gánh thóc về. 
Gánh về. Gánh về 
Gánh về. Gánh về… 
. . . . . . . . . 
Đầu óc đang bị trói vào ưu tư phiền muộn nhưng trong lòng thì lại phơi phới hân hoan vì thấy mình vẫn tìm ra cái đep trong kháng chiến và vẫn có thể hát cái đẹp đó lên được. Tôi lại muốn tung cánh ra đi. Nhưng vào thời điểm cuối Đông Xuân 1950-51 và tại địa điểm Chợ Neo này, tôi không còn là một người hoàn toàn tự do như trước nữa. Con chuồn chuồn rụng mất đôi cánh rồi. Nó đâu còn có thể: khi vui nó đậu khi buồn nó bay được nữa? Tôi vừa có một gia đình nhỏ nhưng lại có thêm một bổn phận lớn. Lúc còn ở Việt Bắc, vào “giây phút của sự thực”, với quyết định ưu ái của cái mà anh Nguyễn Xuân Khoát gọi là Đoàn Thể, tôi cũng đã cân nhắc rất kỹ lưỡng khi thấy mình đứng giữa hai trách nhiệm. Trách nhiệm nào cũng xứng đáng để mình ôm chặt lấy. 
– Trách nhiệm đối với dân tộc ư? 
Tôi tự thấy không cần phải gia nhập một đảng phái nào dù đó là một đảng đang nắm chính quyền, không cần phải đi ngoại quU³ốc, không cần được tuyên dương công trạng mà tôi vẫn có thể làm việc cho quê hương, dân tộc. Lúc nào, ở đâu và trong mọi trạng huống, tôi vẫn có thể soạn ra những bài hát tỏ tình với người dân hay viết ra những bài hát xưng tụng quê hương, đất nước. 
-Trách nhiệm đối với vợ con à? 
Tôi đã có dịp cho thấy tôi không coi chuyện chính trị hơn vợ con. Tôi đã từ chối không đi ngoại quốc để ở lại với người vợ đang có thai, rồi cũng từ chối luôn một địa vị nào đó ở Trung Ương để đưa vợ về Chợ Neo sinh con đẻ cái, mẹ tròn con vuông. Cũng như đối với mọi người trên thế gian này, trách nhiệm đó chỉ chấm dứt khi tôi chết. Tôi đã từng quan niệm sự tự do của con người quan trọng như sự tự do của đất nước. Bây giờ, tôi có thêm quan niệm về trách niệm đối với gia đình và quốc gia: Trách nhiệm ngang nhau. Giản dị là như vậy. 
Đã nói qua tới những vấn đề rất lý tưởng, xin quay về với chuyện la đà trên mặt đất là cuộc sống hằng ngày. Tôi không còn làm việc với bất cứ một cơ quan nào nữa rồi, có nghĩa là tôi “ngồi chơi sơi nước” trong gần một năm. Tướng Nguyễn Sơn ra đi là tôi trở thành một người bị bỏ quên ở Chợ Neo. Vị Tư Lệnh hiện nay ở Liên Khu IV này là Hoàng Minh Thảo và U±y viên chính trị Trần Văn Quang không phải là những người biết dùng văn nghệ sĩ. Ông Đặng Thái Mai là người hiểu biết thì ông không có được sự cởi mở dễ dàng như Nguyễn Sơn để thu hút văn nghệ sĩ. Tất cả như đã bỏ rơi tôi. Hoặc chờ tôi tới với họ. Khốn nỗi tôi thuộc vào hạng “quân tử Tầu” nên không bao giờ tôi xin ân huệ ở ai hết. 
Có thể nước Việt Nam kháng chiến vào lúc này không còn là của “toàn dân” như trong những khẩu hiệu nữa, mà vào nằm gọn trong tay của một tổ chức, của một nhóm người rồi. Cũng cần phải nói ngay ra ở đây là tôi không có gì là phiền hà vì điều đó cả, bởi chưng trên quả điạ cầu bé nhỏ này, có nước nào mà không nằm trong một tổ chức đâu? Hoặc trong 4 năm, hoặc trong 10 năm, hoặc trong cả 100 năm. Tôi chỉ muốn nói rằng vào lúc tôi từ khước mọi ràng buộc với “tổ chức” để sống với gia đình thì tôi cảm thấy có sự lạnh nhạt của tổ chức đó trong lối đối xử với tôi. Lại còn có sự phao tin tôi bất mãn vì “không được đi ngoại quốc” (!) và Nguyễn Đình Thi đã được chọn để nhân danh Hội Nhạc Sĩ đi dự Hội Nghị Thanh Niên ở Berlin. Lúc tôi còn ở Yên Giã ai cũng tin rằng tôi là người có đủ tư cách để đi dự hội nghị này. Thực ra thì tôi đâu có màng tới chuyện đó? Cho tôi đi Moscou mà tôi còn không ham, huống gì Berlin? 
Vào đầu mùa Hạ năm 1951 này, đời tôi đã rẽ qua một nẻo khác rồi. Trước đây, sống một thân một mình, tôi chẳng bao giờ quan tâm tới tiền nong hay lương lậu, hũ gạo hay lọ nước mắm. Cũng như mọi người độc thân khác, tôi chỉ sống với một cái ba lô ở trên lưng. Nay thì khác, không phải là hai cái ba lô ở trên lưng mà là hai mạng sống. Kể từ ngày tôi bỏ nhà ra đi, tự lập thân, đổ mồ hôi ra để sinh sống, lúc nào tôi cũng rất phong lưu dù đời sống của tôi chỉ là của một cậu giáo viên, một anh nông dân hay một chú công nhân tối tăm và vô danh. Đến khi tôi trở thành ca sĩ hát rong và nổi danh ở tiền trường thì tôi phong lưu hơn nhiều. Bây giờ thì sao? Chẳng gì mình cũng là người đã có thành tích công tác — tuy thành tích cũng chẳng có gì là ghê gớm cả — nhưng đáng lẽ ra tôi không nên bị lâm vào cảnh khó khăn như thế này. 
Bước vào tuổi 30, tôi vẫn chưa mất đi cái tính “bất cần đời” của thời niên thiếu. Kháng chiến còn giúp tôi hiên ngang hơn trước là đàng khác. Do đó, ở vào cái tuổi “tam thập nhi lập” này, trong khi đại đa số các bạn bè của tôi, vì hoàn cảnh riêng của từng người, có thể họ không dám phản ứng mạnh trước những trói buộc của tình thế thì trái lại, tôi không bao giờ chịu thua hoàn cảnh cả. Tôi đã có đủ nghị lực để từ chối những ân huệ thì tôi cũng có đủ can đảm để tung hê, để quẳng đi những hư danh hay hư lợi nào đó. Không có gì trói buộc được tôi, dù là ân sủng, dù là lạnh nhạt, dù là tình yêu hay hận thù. Tôi là một nghệ sĩ. Tôi yêu chuộng tự do. Tôi đòi hỏi một sự đãi ngộ xứng đáng đối với một nghệ sĩ độc lập. 
Sống với một tâm trạng có phảng phất hoài nghi và buồn bã, nhưng cũng với quá nhiều mệt mỏi vì đời sống vật chất hằng ngày, đã có những lúc tôi cần phải “siêu hoá” đời mình. Tôi ngồi soạn lời ca tiếng Việt cho rất nhiều bài nhạc cổ điển trong đó có bài Rêverie của Schumann mà tôi rất thích. Khi soạn lời Việt cho bài này, tôi mường tưởng nhạc sĩ người Đức kia đã nhìn những chòm sao để mà mơ mộng. Tôi bèn chơi chữ: vòm sao – vì sao – dù sao – mà sao: 
Chiều rơi từ nơi nào xa vắng cũ 
Bóng đêm về đó, trời sầu tưởng nhớ 
Và lòng nặng mong chờ. 
Ngồi im nhìn lên vườn sao lấp ló 
Có muôn ngàn sao lững lờ 
Có ai run trong xa mờ. 
. . . . . . . . . . . . . . . . . 
Vì sao lìa nhau để theo kiếp số? 
Cách xa nhiều quá 
Nhờ đêm chiếu cho thêm mịt mù. 
Dù sao người trên trời cao vẫn nhớ 
Biết duyên bạc số 
Mà sao vẫn chưa quên tình hờ? 
Đột nhiên hạt sao rụng như cánh lá 
Thấy tinh cầu ngã 
Tưởng là người cũ, là người của mong chờ. 
Tình ta hoà theo vệt sao bỡ ngỡ 
Tới nơi mơ hồ có một trời hoa 
Suốt một đời mơ ước thành tình ta… 
Siêu hoá bằng cách nhìn lên trời sao để soạn lời cho bài hát Mơ Mòng… Từ đó, tôi liên tưởng tới ngôi sao trên lá cờ Việt Minh. Tháng sau là tháng 5 và sắp tới cái ngày được coi là sinh nhật của ông Hồ. Để nhớ lại những huyền thoại khi tôi nghĩ về những người như ông lúc tôi còn thơ ấu, nhớ lại những rung động lúc tôi gặp ông một lần ở Hà Nội và một lần ở Việt Bắc — nhớ lại một lần cuối cùng chăng? — tôi soạn ra một bài hát nhan đề A³nh Sáng Hồ Chí Minh: 
Ngày mười chín tháng năm, sáng tưng bừng 
Trời Việt… (quên) 
A³nh Sáng Hồ Chí Minh 
Đôi mắt người dìu dắt dân mình. 
A³nh sáng bừng khắp nơi 
Tôi định hát bài này vào ngày 19 tháng 5 nhưng tôi và cả đại gia đình “dinh tê” vào ngày mùng 1 tháng 5 năm mất rồi. 
Thời gian cứ trôi dần. Số tiền tác quyền mà bố vợ đem từ Hà Nội ra cho tôi nay đã gần cạn. Quán Thăng Long đã êm đềm đóng cửa vì vắng khách hoàn toàn. Cũng như tiểu gia đình của tôi, đại gia đình của bố mẹ vợ tôi cũng ăn gần hết số tiền ông Thăng Long vay được ở những bạn bè trong thành phố. Từ một nơi nào đó ở Việt Bắc, hai vợ chồng Phạm Đình Sỹ, Kiều Hạnh cùng với hai con gái là Mai Hương, Bạch Tuyết và một con trai tên là Lan Sơn cũng đã lặn lội về tới Chợ Neo. Phạm Đình Sỹ là con trai thứ hai của bố vợ tôi, trước đây là một công chức của Sở Quan Thuế Đà Nẵng, ra với kháng chiến thì phục vụ tại một cơ quan nào đó ở Việt Bắc. Chị Kiều Hạnh lúc còn ở Hà Nội là một nữ diễn điêu luyện của ngành Kịch Nói trong đoàn kịch Hoa Lan. Khi chị chạy ra với kháng chiến, có lần chị đã định gia nhập Đoàn Văn Nghệ Giải Phóng của Phạm Văn Đôn, nhưng chị không nỡ bỏ chồng con ở một chỗ để đi công tác xa. Sống ở Việt Bắc, với số lương không đủ ăn của anh Sỹ, chị Kiều Hạnh phải làm thêm cái nghề bán quà vặt như bánh chưng,sôi, mía, khoai lang, sắn luộc… cho nhân viên của cơ quan. Ca sĩ Mai Hương lúc đó mới có 9 tuổi mà phải vào rừng, dù trời mưa hay nắng, để hái lá rong cho mẹ gói bánh. Anh chị Sỹ cũng ở trong tình cảnh của đại đa số các gia đình thị dân khác, sau 5 năm rời bỏ Hà Nội để đi theo kháng chiến, bây giờ gia đình này đã kiệt quệ về kinh tế rồi. Và khi bố vợ tôi nhắn tin thì gia đình này bò về Thanh Hoá. 
Đại gia đình gồm gia đình bố, mẹ, anh em nhà vợ, gia đình anh chị Sỹ và gia đình tôi bây giờ ngồi nói chuyện với nhau thì tất cả mọi người chỉ còn có một ý nghĩ: “dinh tê”. Y³ nghĩ buồn rầu đó đã xâm nhập tâm hồn tôi. Tôi đã soạn ra một bài hát kể chuyện một nàng tiên nữ có cái tên là Giáng Hương bị Trời đầy xuống trần gian. Bài hát nhan đề Cành Hoa Trắng: 
Trời đầy cô tiên nữ 
Xuống đầu thai thành hoa 
Giữa đêm mờ, hoa nở ngát hương. 
Người về trong đêm tối 
Ôm cành hoa tả tơi 
Bóng in dài gác đời lẻ loi… 
Chúng tôi có khoảng một tháng trời để nhìn thấy chung quanh mình có khá nhiều gia đình đã “dinh tê”. Gặp được những gia đình bạn như gia đình Nguyễn Giao (bố vợ Hoàng Thi Thơ), gia đình Đỗ Xuân Hợp, gia đình Đoàn Châu Mậu… là có ngay những vụ bàn bạc về việc “rentrer”: vào thành? hay “rester”: ở lại? 
Ơ± lại –”rét tê” — thì không còn tiền để mua gạo mà ăn. Chưa dám nói tới thịt, cá đâu. Nhất là không có tiền mua thuốc men để chống đỡ với các Thần Bệnh Tật. Riêng hoàn cảnh của gia đình tôi thì y hệt hoàn cảnh của người vợ lính trong bài thơ của Hoàng Cầm. Quán Thăng Long ế khách quá nên đóng cửa từ lâu, làm gì còn có dăm ba bát phở thừa để cho Thái Hằng ăn hằng ngày nữa. Thiếu sữa cho đứa bé ăn là cái chắc. Chẳng lẽ lại nuôi một con dê sữa như bà Đào Duy Kỳ ở Việt Bắc? Tôi nhìn lũ con của anh chị Sỹ là Mai Hương, Bạch Tuyết, thấy cháu nào cũng thiếu dinh dưỡng — nhất là cháu Sơn sinh ra ở Lạng Sơn — cháu nào cũng xanh xao gầy gò không thua gì cậu em vợ của tôi cả. 
Vào thành — “rinh tê” — thì tiếc công đóng góp vào kháng chiến của mình. Cũng cần phải nói ngay rằng nếu trong lòng tôi lúc đó có một sự hoài nghi nào đối với lối cư sử của một tổ chức đang nắm vận mệnh của toàn dân thì tôi lại không có một chút hoài nghi nào về sự thắng lợi của kháng chiến cả. Sớm muộn thì Pháp cũng sẽ phải thua trong trận chiến này. Những người như tôi cũng có ích lợi cho một giai đoạn của cuộc kháng chiến rồi đấy. Đó là giai đoạn của Mặt Trận Việt Minh– trên danh nghĩa — bao gồm đủ mọi thành phần đảng phái. Nhưng bây giờ bộ mặt chính trị của Việt Minh đã đổi khác. Đảng Lao Động đã xuất hiện. Giai đoạn phản đế đã xong. Giai đoạn phản phong đã khởi sự. Bàn tay sắt đã giơ ra. Không một ai có thể đứng ngoài tổ chức được nữa. Tôi là một trường hợp muốn vượt ra ngoài tổ chức. Tôi bị bỏ quên là phải. Tôi không làm gì được cho kháng chiến nữa rồi, nhưng kháng chiến nhất định sẽ thành công. “Kháng Chiến Nhất Định Thành Công” không phải vì ông Hồ đã bảo như vậy, cơ quan tuyên truyền đã làm thành khẩu hiệu như vậy. Kháng chiến phải thành công vì Quân Đội của Việt Minh đã lớn mạnh, hậu phương của Việt Minh bây giờ không phải chỉ là vùng quê Việt Nam mà thôi, nó còn là cái nước khổng lồ Trung Cộng kia nữa, đa số dân chúng vẫn còn ủng hộ cuộc kháng chiến. Một số dân chúng bất mãn hay bị kiệt quệ về kinh tế mà phải bỏ kháng chiến về thành thì kháng chiến vẫn cứ nhất định thành công cho mà coi. 
Bàn tán về việc “dinh tê”, chúng tôi có thêm nỗi sợ cả hai bên Công An Việt Minh và quân đội Pháp. 
– Làm sao để đi thoát Công An Việt Minh? 
Tôi bàn: 
– Chia nhau ra mà đi, đừng đi chung cả ba gia đình. 
– Tới vùng Pháp chiếm thì có bị Pháp giết như người ta đồn hay không? Ai sẽ đảm bảo cho mình khi mình tới vùng “địch”? 
Bố vợ bảo: 
– Đừng lo, miễn là về được tới Phát Diệm. Đã có anh Chung (Phạm Đình Chung, người con cả) đang làm việc trong Bảo An Đoàn ở Hà Nội đảm bảo cho mình. 
Trong thời gian này, có một người biết tôi sẽ “dinh tê”. Đó là Nguyễn Đức Quỳnh. Một đêm, từ làng Quần Tín không xa Chợ Neo là mấy, anh đi bộ qua nhà tôi chơi. Hai anh em kéo nhau ra bờ đê sông máng, đứng nhìn về phía xa, thấy có một khoảng chân trời sáng hơn chỗ khác. Đó là một thành phố nào đó, có những đèn đường đêm đang phản ánh sáng lên trời, khiến cho dân thành phố như tôi và anh Quỳnh bỗng thấy nổi lên trong lòng một sự nhớ thương hè phố mà người Pháp đã gọi là “la nostalgie du pavé”. Tuy không nói ra, nhưng chúng tôi đã hẹn thầm là sẽ gặp nhau ở Hà Nội.

CHƯƠNG 35

Mùng 1 tháng 5 năm 1951, đại gia đình họ Phạm chia ra ba nhóm để dinh tê. Chúng tôi chọn ngày Lễ Lao Động để ra đi, tin rằng Công An hay cán bộ trong chính quyền ở nơi này cũng như ở những nơi khác đều lơ là trong việc canh gác, vì họ rất bận bịu trong công việc tổ chức ngày lễ quan trọng của họ. Ba người đàn ông là tôi và Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương đi một đàng. Đàn bà, con gái, ông già, trẻ con là ông bà Thăng Long, Thái Hằng, Băng Thanh và bé Quang đi một nẻo khác. Đứa bé được bỏ vào trong một cái thúng để gánh đi. Gia Đình Phạm Đình Sĩ, Kiều Hạnh đi riêng một nẻo khác. Đúng như dự đoán của chúng tôi, cuộc ra đi của ba toán đã chẳng gặp một trở lực nào cả. 
Tôi, Phạm Đình Viêm và Phạm Đình Chương đã đi qua Đò Lèn để tới vùng Phát Diệm. Chỉ mất một ngày đường là tới vùng tề. Cảnh đồng quê vẫn êm đềm, óng ả như tự bao giờ, chẳng cần biết đến chuyến đi vô cùng quan trọng của chúng tôi. Vừa đi tôi vừa mở rộng đôi mắt, vừa lóng đôi tai để thu vào tâm trí hình ảnh và âm thanh của một miền đất nước mà không bao giờ — phải, không bao giờ — tôi còn nhìn, còn nghe thấy nữa. Tôi thở mạnh, không biết có phải tôi đang thở dài hay tôi đang cố hít một lần cuối cùng cái không khí “đồng quê bát ngát” nằm trong một bài hát của tôi đây? 
Còn khoảng vài cây số nữa là sẽ tới cái đồn đầu tiên của vùng bên kia chiến tuyến. Chúng tôi gặp một cái quán nhỏ và vào quán để nghỉ ngơi. Lần đầu tiên, sau 5 năm đi kháng chiến, bây giờ chúng tôi mới nhìn thấy những chai rượu bia. Dù tôi không uống rượu bao giờ, cùng với hai anh em vợ, tôi cũng gọi mua một chai bia và một bát phở. Đã từng thiếu chất ngọt trong người từ lâu, cả ba chúng tôi pha đường vào bia để uống. Không ngờ bị say rượu, đỏ mặt tía tai lên. Đó là một kinh nghiệm đầu tiên trong cuộc đổi đời này. Ăn uống xong, chúng tôi hồi hộp ra đi trên con đường đưa chúng tôi tới thị xã Phát Diệm. 
Khi tôi cùng với hai anh em vợ tới một con sông nhỏ thì nhìn thấy một cái đồn ở bên kia sông. Đột nhiên tôi thấy lá cờ tam tài cắm trên nóc đồn. Tôi bảo hai người anh em vợ hãy cùng tôi đứng lại ở bên này chiếc cầu. Ngước mắt nhìn lá cờ Pháp, tôi không làm sao ngăn được hai dòng nước mắt đang từ từ chảy trên đôi má… 
… Nước mắt tiếc thương cho những năm đem hết tâm trí ra để cống hiến cho Cách Mạng và Kháng Chiến… Trong đó có giọt nước mắt rơi khi tưởng rằng gặp được tình yêu nước qua hình ảnh một lãnh tụ, trộn vào nước mắt vui trên chuyến xe lửa “xuất quân”, nước mắt rơm rớm khi nhìn thấy xác bạn đồng đội trong chiến khu Đất Đỏ, nước mắt cảm động khi nghe bà mẹ quê hát bài dân ca của mình mà ngỡ rẵng đó là một bài hát cổ truyền, nước mắt ào ào vì chuyện bi hùng của một bà mẹ ở huyện Gio Linh, nước mắt chảy vào trong ruột khi được tin mẹ mình đã mất. Và lúc này là nước mắt nhục nhã… 
Tôi giật mình, vội lấy tay lau khô nước mắt khi nghe tiếng quát ở bên kia sông: 
– Ê, mấy thằng kia. Đi đâu? 
Nghe thấy tiếng súng lên đạn lóc cóc, chúng tôi vội vàng giơ cao lá cờ trắng đã làm sẵn với chiếc mù-xoa. Rồi chúng tôi bước qua cầu để tới đồn canh. Ơ± đây lính giữ đồn là lính “Commando”, mặc binh phục mầu đen. Một Quản Binh Pháp tên là Vandenberghe đã tạo ra những toán lính Việt-Pháp này, ăn mặc và trang bị nhẹ giống như Việt Minh để hoạt động ở những vùng tề. Chúng tôi khai là thường dân đi tản cư ở vùng Việt Minh, nay đã kiệt quệ về kinh tế cho nên muốn trở về với gia đình và khai ra tên người anh ruột của Viêm là Phạm Đình Chung hiện đang phục vụ trong Bảo An Đoàn. Sau khi quay tê-lê-phôn hỏi ai đó không biết, trưởng toán lính Commando ký giấy cho chúng tôi ra đi. Chúng tôi vào tới thành phố Phát Diệm thì trời đã về chiều. Rồi đêm tối xập xuống. Chúng tôi đang đi lang thang ở trong đường phố tối om để tìm chỗ ngủ thì gặp một người quen tên là Diễn. Anh Diễn niềm nở cho chúng tôi về tạm trú tại nhà anh. Trong đêm đầu tiên ở một vùng cũng là phần đất quê hương nhưng vẫn còn cảm như xa lạ, tôi thức thâu đêm suốt sáng. 
Hôm sau chúng tôi ra Ty Công An Phát Diệm để làm giấy tờ cần thiết. Chụp ảnh, lăn tay và được cấp một cái thẻ tùy thân to như một tấm passeport. Tôi cũng là nhân vật nổi tiếng ở trong vùng thành phố rồi cho nên tôi được đối sử rất là tử tế. Tôi không còn mang mặc cảm đầu hàng nữa khi nhận ra rằng vùng Phát Diệm này là một vùng rất độc lập. Ông Bảo Đại, sau khi từ Hồng Kông về nước với địa vị một Quốc Trưởng, đã giành được ở Pháp những gì mà ông Hồ đòi hỏi. Đã có một Chính Phủ Việt Nam mà Thủ Tướng là Trần Văn Hữu, Thủ Hiến Bắc Việt là Đặng Hữu Chí, nhưng người Công Giáo ở Khu Phát Diệm-Bùi Chu này, dưới sự lãnh đạo của Đức Giám Mục Lê Hữu Từ, vẫn tuyên bố vùng này là vùng tự trị, không thuộc quyền Phủ Thủ Hiến Bắc Việt. Không theo Pháp, không theo Việt Minh, không chịu sự chỉ huy của Phủ Thủ Hiến, họ có quân đội riêng, có tổ chức hành chính riêng. Đó là một thứ mầm mống của chính thể quốc gia sau này. Đặt bước chân đầu tiên vào vùng Bùi Chu-Phát Diệm này, tôi xác định là tôi về với quốc gia, không phải về với Pháp. 
Chỉ ở lại Phát Diệm thêm một ngày nữa, rồi chúng tôi đi bộ qua Nam Định để từ đó mua vé máy bay đi Hà Nội. Tiền mua vé máy bay là tiền bán chiếc nhẫn cưới tôi mang theo phòng hờ. Lần đầu tiên ngồi trên máy bay, chúng tôi lại có thêm một kinh nghiệm nữa của cuộc đổi đời. Nhưng khi nhìn qua lỗ kính của máy bay để thấy cảnh đồng quê đang trôi lờ lững ở dưới kia, tôi cũng không cầm được dòng nước mắt. Về tới Hà Nội, tôi được tiếp đón rất nồng hậu bởi những bạn bè cũ của tôi, phần nhiều là đảng viên của Đảng Đại Việt, hiện nay đã nắm những chức vụ quan trọng của chính quyền. Ông Thị Trưởng Hà Nội Thẩm Hoàng Tín cũng là người quen biết. Ông có họ hàng với nhạc sĩ Thẩm Oánh. Có cuộc “thẩm vấn” người từ vùng Việt Minh trở về. Tôi cũng được anh bạn phụ trách việc phỏng vấn coi như một nghệ sĩ độc lập không làm chính trị cho nên buổi gặp gỡ đã diễn ra trong không khí thân hữu, nhẹ nhàng và nhanh như chớp nhoáng. Nhờ có hai người bạn là Đặng Trần Vận và Lý “Móm” — lúc đó đang làm việc trong hai tổ chức của Bộ Thông Tin và Bộ Nội Vụ — Sở Công An Hà Nội không làm phiền gì tôi nữa sau buổi phỏng vấn lúc ban đầu. Chỉ sau này, khi tôi vào sinh sống ở Saigon tôi mới bị Công An dưới quyền của Mai Hữu Xuân bắt nhốt vào khám Catinat trong 120 ngày. Bắt nhốt mà không có xét xử gì cả, với mục đích là “dằn mặt tôi”, một người mà họ ngờ là hãy còn dính líu với Việt Minh. Hồ sơ về vụ bắt tôi vào năm 1952 này đã được giải mật sau thời gian ba mươi năm. Tài liệu đó hiện đang nằm trong Thư Viện QuU³ốc Gia Pháp. 
Hai ngày sau khi tôi về tới Hà Nội thì 2 toán “dinh tê” kia cũng đã từ Chợ Neo đi qua Đò Lèn vào tới Phát Diệm, rồi từ đó đáp tầu thủy, ngược con sông Đáy đi lên Hà Nội. Chúng tôi chia nhau ra tạm trú ở nhà bà con vài ngày rồi sau khi thuê được một cái garage ở phố Hàm Long thì tất cả chúng dọn về đó ở chung với nhau, 8 mạng người trong một gian phòng không đầy 70 thước vuông mà chúng tôi gọi là cái hộp diêm. Gia Đình Phạm Đình Sĩ tách rời ra khỏi đại gia đình này, đi ở chỗ khác. Người anh Cả Phạm Đình Chung mặc quân phục oai nghiêm tới “cái hôE°p diêm” để gặp mọi người trong gia đình và kể cho nghe những chiến dịch trong đó có sự tham dự của Bảo An Đoàn… 
Hà Nội bây giờ đã có khá nhiều người trở về sau 5 năm đi tản cư. Thành đô rất náo nhiệt vì mang một bộ mặt chiến tranh khẩn cấp. Kịch chiến xẩy ra giữa Pháp và Việt Minh ở khắp mặt trung du. Tại Vĩnh Yên. quân chính quy của Việt Minh đã xuất trận nghênh chiến với Quân Đội Pháp dưới quyền chỉ huy mới mẻ và quyết liệt của tướng De Lattre. Tại mặt trận Ninh Bình, con trai độc nhất của De Lattre là trung úy Bernard bị tử thương. Đã có lính của Quân Đội Quốc Gia — được thành lập từ cuối năm 1950 — tham dự vào các chiến dịch bên cạnh Quân Đội Pháp. Khi còn ở vùng quê, trong một thời gian dài 5 năm trời, tôi không biết một tí gì về tình hình ở trên thế giới cả. Về Hà Nội đọc báo thì mới thấy chiến tranh Cao Ly đang đi vào hồi quyết liệt. Sau Hội Nghị ở Yalta là nơi các cường quốc chia nhau những vùng ảnh hưởng, với chiến tranh Cao Ly này, tôi thấy thế giới đã chia ra hai phe rõ rệt. Bất cứ một cuộc nội chiến ở một nước nhỏ nào — ngay từ bây giờ hay là về sau — theo tôi cũng chỉ là phản ảnh của cuộc chiến giữa hai phe Tư Bản và Cộng Sản. Tuy đã sống hơn năm năm xa cách và thương nhớ Hà Nội nhưng bây giờ thì tôi không còn một phút rảnh rang nào để sống với thành đô yêu dấu của tôi cả. Ngoài sự lo liệu nơi ăn chốn ở và sự mưu sinh cho cả gia đình bố mẹ vợ lẫn gia đình của mình, tôi còn luôn luôn bị cái dĩ vãng gần gũi ám ảnh. Tâm trạng của tôi lúc đó còn là của một người hoảng hốt, vừa bị mất đi một tình yêu quá lớn và chưa có một mối tình tự quê hương nào tới để thay thế. Mối tình này rồi cũng sẽ tới, nhưng hiện nay còn quá sớm để nói tới nó… 
Một cậu em tên là Phạm Viết, người phố Hàng Tre — mà tôi yêu mến vô ngần kể từ ngày hai anh em còn chia nhau miếng bánh mì chấm dấm ở trường Tiểu Học phố Hàng Thùng — đang là cán bộ Việt Minh hoạt động ở trong nội thành, bí mật tới gặp tôi ở trên căn gác nhỏ trong ngôi nhà lớn ở đường Carreau ngay khi tôi mới chân ướt chân ráo về tới Hà Nội và đang tạm trú tại nhà người anh rể. Phạm Viết cũng hoảng hốt như tôi. Hai anh em nhìn nhau rất lâu. Rồi chúng tôi mở lời tâm sự với nhau. Phạm Viết không có đủ thẩm quyền để trả lời những câu hỏi hoài nghi của tôi. Rồi cậu em mở cửa ra đi. Không bao giờ tôi gặp lại Phạm Viết thân yêu của tôi nữa. 
Cùng với mấy người anh em vợ, chúng tôi đi coi phim chiếu bóng là môn giải trí mà chúng tôi đã thiếu thốn trong nhiều năm qua. Lúc đó có một rạp “xi nê ma” mới là rạp Studio, rất khang trang, ở gần rạp Majestic trên đường Hai Bà Trưng chiếu những phim “Tân Tả Thực” của ợY Đại Lợi trong đó có những tài tử như Vittorio De Sica, Sophia Loren đóng vai chính. Tôi rất thích những chuyện phim như Kẻ Cắp Xe Đạp (Le Voleur De Bicyclette) Lũ Trẻ Đánh Giầy (Sìiùca) nói lên thảm trạng của người dân ợY trong Thế Chiến 2. Nhưng ngoài thời gian đi rong chơi hay đi coi phim chiếu bóng như vậy, chúng tôi không biết phải làm cái gì cả. Gia đình ca nhạc sĩ của chúng tôi ngồi nhìn nhau suốt ngày. Thế là sau hai tuần sống ở thành đô này, tôi có ngay ý nghĩ là chúng tôi khó có thể sinh sống ở Hà Nội được. Phải đi tìm đất sống. Đi tìm một nơi nào có thể “bán” được tiếng đàn, tiếng hát của mình. Tôi lập tức đáp máy bay vào Saigon là nơi tôi đã có kinh nghiệm sống, nơi chắc chắn có Đài Phát Thanh, có hãng sản xuất đĩa hát, có gánh hát rong… địa bàn hoạt động của mình là đó. 
Gặp lại Saigon, tôi không thấy ở đây có không khí chiến tranh như ở Hà Nội. Trái lại, thành phố có vẻ thanh bình và sầm uất hơn thời tôi đi theo gánh hát Cải Lương và thời tôi “hoạt động cách mạng” (!). Pháp có ưu thế quân sự hơn Việt Minh ở miền Nam cho nên Saigon rất an ninh dù thỉnh thoảng cũng có một, hai vụ ám sát viên thanh tra mật thám người Pháp hay người công chức cao cấp người Việt. Còn đang trong tâm trạng của một người vừa ở bên kia chiến tuyến trở về và đang lo tìm cách sống, tôi không dám nghĩ tới chuyện rong chơi tại nơi được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông này. Tôi đang chạy đi chạy lại trong thành phố đã được mở rộng hơn trước để tìm việc thì tôi gặp được Hoàng Cao Tăng, chủ sự Phòng Chương Trình của Đài Pháp A³, là người tôi đã quen biết từ trước. 
Hoàng Cao Tăng đảm bảo là gia đình chúng tôi sẽ được mời tới hát tại đài phát thanh này với số tiền thù lao đủ cho mỗi người có một đời sống tương đối không khó khăn lắm. Gặp Phạm Xuân Thái và thấy anh bạn này vẫn sống một cách ung dung nhàn nhã và sẵn sàng cho đại gia đình chúng tôi tạm trú tại nhà anh. Rồi khi tôi tới gặp chủ nhân một hãng sản xuất điã hát Việt Nam là Lê Văn Tài thì tôi được lĩnh trước một số tiền tác quyền khá lớn. Tân Nhạc ở Saigon lúc này đã có đất sống. Trước kia, các hãng sản xuất đĩa hát chỉ thu thanh cổ nhạc, nay đã khởi sự thu thanh tân nhạc. Với kinh nghiệm đi hát với gánh Đức Huy, tôi thấy rằng nếu vào Nam sinh sống, tôi còn có thể tổ chức cho gia đình đi hát ở mọi nơi, nếu chúng tôi thành lập được một ban hợp ca và phối hợp với một ban kịch nhỏ. Chúng tôi sẽ có thể sống bằng nghề âm nhạc, một nghề rất độc lập, không cần phải dính líu tới chính trị. 
Trở ra Hà Nội, tôi đã dùng số tiền lĩnh trước của Lê Văn Tài để mua vé máy bay cho tất cả mọi người đi vào miền Nam. Tính ra thì từ ngày bỏ Chợ Neo, Thanh Hoá để “dinh tê” vào thành, chúng tôi chỉ ở lại Hà Nội trong đúng có một tháng trời.

Trích HỒI KÝ PHẠM DUY


Tôi yêu tiếng nước tôi ,chuyện kể bằng âm nhạc và tranh vẽ


“Quyền Bính” – vấn đề muôn thuở trong lịch sử Việt Nam hiện đại

QB2Thăng yên hạ mã bách thiên nan
Quốc thế như kim thực vị an
Nùng mạt, đạm trang, nhân tính cựu
Nguyên nhung bát thập bất tri nhàn

(Lên yên xuống ngựa khó muôn vàn
Thế nước hôm nay thực chửa an
Đậm, nhạt, mau, thưa người nếp cũ
Tám mươi lão tướng chẳng mong nhàn)

Tôi mở đầu vài cảm nghĩ về cuốn sách “Quyền Bính” (Tập 2 – Bên Thắng Cuộc, Huy Đức) bằng bài thơ của Tào Mạt: “Gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi bộ ứng khẩu làm ngay”. Năm 1991 ấy, tướng Giáp tròn 80 tuổi. Sau Đại hội VII ĐCSVN, ông Võ Nguyên Giáp – một đại công thần của chế độ, chính thức rời khỏi chính trường. Rồi những cuốn hồi ký nổi tiếng, rất có giá trị sử học của ông liên tiếp ra đời: Chiến đấu trong vòng vây, Đường tới Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng…Nhưng, trong những cuốn hồi ký ấy, ông chỉ nói rất ít về bản thân mình.

Thì đây, “Quyền Bính” có một chương riêng về tướng Giáp. Tác giả đã cho chúng ta biết một câu nói rợn người đầy kinh hãi của Lê Đức Thọ qua lời kể của Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể Lê Duẩn: “Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”. Than ôi! Một ông Đại tướng Tổng tư lệnh, người Anh Cả đầu tiên và duy nhất của quân đội, đã làm nên biết bao công tích, được thế giới ca ngợi, đã phạm “tội” gì mà Lê Đức Thọ dám đưa ra một lời kết án tai ác đến cỡ đó?

Trong Quân ủy Trung ương, ông Thọ chỉ là Phó Bí thư, cấp dưới của ông Giáp. Ông ta dĩ nhiên không phải là nhà quân sự chuyên nghiệp. Chiến lược, chiến thuật quân sự, điều quân đánh đông dẹp bắc là nhờ tài năng của các tướng lĩnh. Thế mà trong chiến dịch Quảng Trị (không chỉ chiến dịch Quảng Trị), “Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường nào, thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh. Kỳ quặc!”.

Lê Đức Thọ thường gọi ông Trần Bạch Đằng, một người cộng sản cấp tiến cực kỳ tài hoa, tiếng tăm lẫy lừng là “thằng trời đánh” – điều cay đắng là ông Đằng không bao giờ được vào Trung ương, dù có ông Lê Duẩn đỡ đầu. Chính Giáo sư Hồ Ngọc Đại cũng đã một phen hoảng hốt sau khi bố vợ mất, ông hỏi Đoàn Duy Thành, “Ba cháu mất rồi, liệu họ… có giết gia đình nhà cháu không?” (Làm người là khó – Đoàn Duy Thành). Quả thật, quyền bính – vấn đề muôn thuở trong lịch sử VN hiện đại.

Người làm chính trị, nắm quyền bính, điều quan trọng nhất là để lại tiếng thơm trong sử sách. Tôi xin lưu ý, một Giáo sư người Mỹ sau khi nghiên cứu về Mao Trạch Đông đã kết luận, cuộc đời ông ta làm được 31 việc nhưng có tới 20 việc liên quan đến việc hủy hoại tinh thần và đạo đức con người!

Quan sát sự vận hành quyền bính tại Việt Nam cho thấy, dường như không ít nhà lãnh đạo cao cấp ghen tỵ với tài năng và vinh quang của tướng Giáp, họ muốn hạ bệ uy tín cực lớn của ông trong đảng và dân chúng. Đến như ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, thay vì bác bỏ bản báo cáo sai sự thật của Nguyễn Đức Tâm về vụ Sáu Sứ, ông lại chỉ đạo điều tra hai ông Võ Nguyên Giáp và Trần Văn Trà; thay vì minh oan cho ông Giáp và ông Trà sau khi biết kết quả điều tra, ông và Bộ Chính trị lại im lặng “đáng sợ”.

Có nhà nghiên cứu cho rằng, ông Võ Nguyên Giáp là điển hình của một tài năng không được phát huy hết trong một xã hội mà sự vận hành quyền lực tập trung vào tay một số người, lại thiếu công cụ để khống chế, kiểm soát quyền lực ấy. Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tham nhũng tuyệt đối và quyền lực tuyệt đối cũng sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối.

Đúng như tác giả Huy Đức nhận xét, ông “mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, Tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông”.

Thêm một điểm cần lưu ý, đó là ông Võ Nguyên Giáp đã xử lý mẫu thuẫn “địch – ta” khác hẳn việc xử lý mẫu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Xử lý mẫu thuẫn “địch – ta” là xử lý mâu thuẫn đối kháng, một mất một còn – chiến tranh là như thế. Song, xử lý mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thì phải khác. Ông Trần Bạch Đằng từng nói: “Đành rằng làm chính trị là phải thủ đoạn. Nhưng làm chính trị thì cũng phải có tình nghĩa, bạn bè chứ”. Chỉ có điều, đối thủ chính trị của các ông không nghĩ và làm như vậy.

Quyền bính (quyền hành) và quyền lực đều có điểm chung là quyền định đoạt mọi công việc và sức mạnh để đảm bảo thực hiện quyền ấy. Quyền lực đồng nghĩa với sức mạnh và như vậy, kẻ mạnh nắm quyền lực sẽ thống trị và chi phối kẻ yếu. “Quyền Bính” đã làm nổi bật tư duy và quyền lực của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp Việt Nam, của tập thể, của cả chế độ, trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, con người và tư tưởng; sự vận hành và chi phối của quyền lực, kết quả của việc thực thi quyền lực. Có thể nói, “Quyền Bính” đã cho chúng ta thấy sự vận hành quyền lực ảnh hưởng như thế nào đến tương lai đất nước và dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử VN hiện đại.

Anh Doan Tran, một người bạn thân của tôi ở Hoa Kỳ, rất am hiểu văn hóa và lịch sử VN – người đã gửi tặng tôi ấn bản điện tử “Quyền Bính” ngay sau khi phát hành, bằng một sự liên tưởng và tinh tế hiếm có, nhận xét: “Hãy lưu ý hình bìa cuốn sách với chiếc xe hơi Lada, dây điện, đèn tín hiệu giao thông rồi đọc chi tiết này trong cuốn sách để thấy sự thú vị:

“Khi nhậm chức, Nguyễn Văn Linh vẫn sử dụng một chiếc xe hơi hiệu Lada của Liên Xô đã cũ thay vì tiêu chuẩn của Tổng bí thư phải là “Volga đen” hoặc Toyota. Theo ông Bùi Văn Giao, trợ lý của Nguyễn Văn Linh: “Ông không biết rằng, để Lada có thể chở Tổng bí thư, Văn phòng phải gắn thêm máy lạnh. Vì tải thêm máy lạnh mà tuổi thọ của những chiếc Lada này bị giảm đi rất nhanh, cứ sau một hai năm là phá luôn giàn máy. Một lần ông Linh đi công tác về tỉnh, chiếc máy lạnh tự chế phát nổ. May mà khi đó, ông Linh đang ngồi trong phòng họp còn chiếc xe thì đậu ngoài sân”.

Phải chăng, đưa “cái lạnh” của tư bản vào “cái nóng” của xã hội chủ nghĩa, nó sẽ “trung hòa” và “bộ máy” sẽ vận hành tốt hơn? Không phải! Trên thực tế, làm như vậy “bộ máy” bị hỏng nhanh hơn và tệ hơn nữa – nó phát “nổ” rất nguy hiểm. Không thể “lắp ghép” một cách tùy tiện, bởi nó không thể tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh, dù gắn cho nó cái “đầu” hay cái “đuôi” gì đi nữa (“đuôi” định hướng XHCN chăng – một gợi ý!). Tri thức nhân loại đã kết tinh hàng ngàn năm, sao người ta không tiến cùng văn minh thời đại, mà lại “sáng tạo” ra con đường đi mới chưa có tiền lệ trong lịch sử và than ôi, sự “sáng tạo” đó đã cho kết quả nhãn tiền rồi!

Cũng như “Giải Phóng”, “Quyền Bính” – dù khách quan đến đâu, chúng ta vẫn nhận thấy tác giả tiếp tục dành cho ông Võ Văn Kiệt nhiều thiện cảm. Anh Doan Tran cho rằng tác giả dường như “thần tượng hóa” ông Kiệt – tôi nghĩ nhận xét đó hơi quá. Dù sao, cách sử dụng quyền lực và việc nắm quyền bính của ông Kiệt được nhiều người ủng hộ, dù ông Tố Hữu bóng gió: “Sáu Dân muốn làm vua Saigon”.

Ông Võ Văn Kiệt có cách giải quyết mâu thuẫn về chính trị khá hay. Đã một lần ông nói với người lãnh đạo văn nghệ: “Ở Sài Gòn nếu đòi hỏi người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng thì chỉ có Bà Định; đóng Lênin thì chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng xem thử có ai đi coi không?”. Lại một lần khác, khi họp Bộ Chính trị để thông qua việc chọn BHP làm đối tác thăm dò dầu ở mỏ Đại Hùng, Nguyễn Hà Phan phản đối: “Đồng bào miền Nam chắc chắn không một ai đồng tình chọn Úc làm đối tác khai thác dầu khí vì bọn Úc đã từng đưa quân vào tàn sát đồng bào ta”. Ông Võ Văn Kiệt liền đứng dậy: “Nếu nói như Sáu Phan thì tôi đề nghị Bộ Chính trị nên chọn Lào đầu tư. Mỹ là kẻ thù mới đánh ta; Pháp đô hộ 80 năm; Nhật khiến cho 2 triệu người chết đói; Úc, Hàn theo Mỹ mang quân sang… Không có nước nào có công nghệ tốt lại không có dính líu vào một ‘tội ác’ nào đó”.

Đọc “Quyền Bính” và “Giải Phóng”, chúng ta nhận thấy có một điểm nổi bật nữa là tính tự trọng của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp thời ấy. Họ dám làm và dám chịu trách nhiệm. Các ông Trường Chinh từ chức Tổng bí thư, Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, Hồ Viết Thắng bị kỷ luật do sai lầm của cải cách ruộng đất. Ông Linh cũng đã phải một lần ra khỏi Bộ Chính trị. Ông Kiệt xé rào, đổi mới. Ông Trần Phương quyết định từ chức sau vụ “giá – lương – tiền” cho dù ông không phải là người chịu trách nhiệm chính. Ông Lê Duẩn thấy rằng, sau vụ “giá – lương – tiền”, Tố Hữu không còn khả năng làm Tổng bí thư, dù đã được chọn vào hàng ngũ kế cận. Và thực tế, tại Đại hội VI, Tố Hữu thậm chí không được bầu vào Trung ương.

Phải thừa nhận, thời ấy đa số các nhà lãnh đạo cao cấp không được đào tạo bài bản, song họ rất có trình độ, chỉ bằng tự học. Còn gần đây và hiện nay thì sao? Không ít người gần như “mất trí” vì ham mê quyền bính: dấu bệnh để mong làm Chủ tịch nước, dấu bệnh để làm Thường trực Ban bí thư, sợ ra khỏi Bộ Chính trị thì chết không nhắm được mắt…Rồi một Tổng bí thư hai nhiệm kỳ mà Phó Ban Tổ chức Trung ương nhận xét trình độ chỉ tầm cỡ cán bộ cấp huyện, một Thủ tướng mà chỉ mới nghe tên thôi, người dân đã lắc đầu ngán ngẩm. Liệu đất nước có thể phát triển sánh vai với thế giới nếu vấn đề quyền bính được vận hành như thế?

Rốt cuộc, ai là người có quyền lực nhất? Nhà tương lai học người Mỹ, Alvin Toffler, trong tác phẩm Thăng trầm quyền lực, đã phân tích rất sâu sắc về quyền lực. Bạo lực, của cải và tri thức là ba đỉnh của một tam giác quyền lực. Bạo lực chủ yếu dùng để trừng phạt, làm người ta khiếp sợ nhưng là nguồn quyền lực ít linh hoạt nhất. Đọc Bên Thắng Cuộc (“Giải Phóng” và “Quyền Bính”), chúng ta đã rõ nhân vật nào, thời nào ưa sử dụng nguồn quyền lực bạo lực nhất.

Của cải được dùng vừa trừng phạt lại vừa ban thưởng và có thể được chuyển thành nhiều nguồn khác, là một công cụ quyền lực rất uyển chuyển. Đọc Bên Thắng Cuộc cũng như quan sát tình hình hiện nay, chúng ta đã rõ nhân vật nào, thời nào ưa sử dụng và sử dụng hết sức “thành công” nguồn quyền lực của cải nhất.

Tuy vậy, tri thức mới là nguồn quyền lực cơ bản và linh hoạt nhất, vì một người có tri thức có thể tránh được những thử thách đòi hỏi sử dụng bạo lực hay của cải và có thể thuyết phục được những người khác để hoàn tất những ý định mình mong ước. Tri thức tạo ra quyền lực có phẩm chất cao nhất. Đọc Bên Thắng Cuộc, chúng ta đã rõ nhân vật nào thường sử dụng nguồn quyền lực tri thức nhất. Nếu nhân vật ấy sử dụng nguồn quyền lực bạo lực, chắc chắn lịch sử VN hiện đại đã khác rồi.

Và một khi quyền lực được tạo ra từ quyền mưu hay từ những yếu tố khác thay vì tri thức thì quyền lực đó không thể bền vững, khiến cho những người nắm quyền lực kiểu đó trở nên đáng sợ – ngay cả với bạn bè, đồng chí, người thân của họ. Lịch sử hiện đại VN không thiếu thí dụ minh họa điều này.

“Quyền Bính” – vấn đề muôn thuở trong lịch sử VN hiện đại. Một xã hội chỉ có thể phát triển tốt khi “quyền bính” được cân bằng, không bị lũng đoạn hoặc tập trung vào trong tay một số người – cũng tức là phải tạo ra một tam giác đều quyền lực trong đó ba đỉnh của nó chính là bạo lực, của cải và tri thức.

Để kết thúc, tôi xin nhìn đôi nét tổng quát về Bên Thắng Cuộc. Điểm mạnh của “Quyền Bính” cũng như “Giải Phóng” là nhiều tư liệu, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp, được thể hiện bởi một nhà báo lão luyện – công trình mang phong cách báo chí. Tuy nhiên, tác giả Bên Thắng Cuộc tái hiện một giai đoạn lịch sử VN hiện đại nhưng tư liệu gốc chiếm tỷ trọng không nhiều lắm, chỉ có một số bức điện, một số báo cáo, một số biên bản, một số nghị quyết, còn chủ yếu sử dụng các hồi ký và phỏng vấn nhân chứng. Đối với những người am hiểu, còn rất nhiều sự kiện lịch sử VN cực kỳ quan trọng, song có thể vì lẽ này, lẽ khác chưa được tác giả đề cập. Vì vậy, tính đầy đủ và chính xác của nó chắc rằng còn phải thảo luận nhiều. Các Phụ lục cuối mỗi tập sách không có gì đặc biệt, chưa tương xứng với nội dung phong phú và những vấn đề rất lớn mà bộ sách đặt ra. Và, tác giả chỉ nêu các sự kiện lịch sử nhưng không phân tích, không bình luận làm cho bộ sách thiếu hẳn tính “hàn lâm” – đó không hẳn là một phương pháp tốt nhất?

Dẫu sao, Bên Thắng Cuộc thực sự là một công trình rất đáng đọc, rất đáng tìm hiểu, rất đáng suy ngẫm, với tất cả ý nghĩa đầy đủ của nó. Đọc Bên Thắng Cuộc, chúng ta càng hiểu thêm nhận xét “có một lịch sử như nó diễn ra và một lịch sử như nhà sử học viết ra”. Thử hỏi, đến nay, đã có công trình nào phản ánh đầy đủ, trung thực và hấp dẫn lịch sử VN hiện đại do các nhà sử học VN “nổi tiếng” thể hiện? Cho nên, chúng ta không đòi hỏi tác giả Bên Thắng Cuộc, song chúng ta có quyền hy vọng…

Lê Mai